Nguyên
Văn Hà
*
Tác giả gửi bài cho VNTB
Từng
một thời, vấn đề nhân lực và chảy máu chất xám đốt
nóng diễn đàn nghị trường, xã hội. Thế nhưng, bao năm
qua, vẫn đó không những chưa được giải quyết, mà
ngày càng rơi vào tình trạng trầm trọng thêm. Chất xám
không những thiếu điền kiện để “hữu dụng” tại
Việt Nam mà liên tiếp bị ngăn trở. Dẫn đến tình
trạng, các cá nhân, tổ chức sáng tạo buộc phải hướng
ra nước ngoài nếu muốn theo đuổi… đam mê sáng chế,
đam mê khoa học
Trần
Quốc Hải và đam mê khoa học
Câu
chuyện “Đam mê của tôi không được khuyến khích ở
VN” của hai cha con ông Trần Quốc Hải (Tây Ninh) là
một câu chuyện đau lòng như vậy.
Trần
Quốc Hải và con là Trần Quốc Thanh được biết đến
rộng rãi khi Nhà nước Campuchia vinh danh, thông qua việc
phong tặng Huy chương Đại tướng quân vì đã giúp sửa
chữa xe bọc thép cho quân đội nước này.
Trước
đó, ông từng có đam mê chế tạo máy móc nông nghiệp,
thậm chí trực thăng. Chiếc trực thăng đầu tiên của
ông (từng bị cấm bay ở Việt Nam) đã được trưng bày
tại Viện Bảo tàng New York - Mỹ.
Họ
(giới chức Việt Nam) nói: “Anh chế (tạo) rất giỏi,
nhưng thôi đừng chế nữa”, ông Trần Quốc Hải
chia sẻ trong cuộc phỏng vấn BBC Vietnamese.
“Anh
rất giỏi, nhưng chúng tôi rất tiếc”
Cái
điệp khúc “giỏi”nhưng “thôi đừng làm nữa”không
phải chỉ áp dụng mỗi cho ông Trần Quốc Hải.
Vụ
“Nông dân làm lò đốt rác
phát điện bị cấm ở Thái Bình”, theo báo cáo
của Đoàn khảo sát của Tổng cục đo lường chất lượng
của Việt Nam thì kết quả đo lường cho ra kết quả an
toàn. Tuy nhiên, với những kết quả thuyết phục như
vậy, ông Bùi Khắc Kiên vẫn bị Sở Khoa học &
Công nghệ Thái Bình ngăn cấm, không cho thử nghiệm, chế
tạo chiếc lò đốt này. Hay khoảng giữa tháng 12/2013,
anh Nguyễn Văn Thắng (Hà Nội) đã chế tạo, thử
nghiệm máy bay trực thăng và được báo chí đưa tin. Hai
tháng sau (2/2014), anh đã bị công an quận Long Biên
đến nhà lập biên bản yêu cầu gia đình phải viết cam
kết không được tiếp tục chế tạo, thử nghiệm chiếc
máy bay.
Một
trường hợp khác là ông Phan Bội Trân - một doanh
nhân, kỹ sư cơ khí và là một chuyên gia về sản xuất
tàu ngầm người Pháp gốc Việt cũng rơi vào trường hợp
như vậy. Mặc dù ông cho biết, ông cũng muốn tàu ngầm
của mình được sử dụng tại Việt Nam, nhưng “trong
hoàn cảnh này thì tôi đành bán cho nước ngoài để có
thêm điều kiện nghiên cứu tiếp”, ông Trân ngậm ngùi.
Sự
thờ ơ đó đã khiến cho nước ngoài chớp lấy cơ hội,
và một công ty kinh doanh du lịch tại Malaysia đã đặt
hàng năm chiếc tàu ngầm do ông chế tạo để phục vụ
du lịch.
Các
hoạt động nghiên cứu, sáng tạo không được cơ chế
khuyến khích, dẫn đến nguồn kinh phí và hỗ trợ về
mặt giấy phép trở thành rào cản lớn nhất đối với
những người như ông Hải, ông Trân.
Chuyện
tương tự cũng xảy đến với chiếc máy bay VAM do ông
Vimar Nguyễn và Hội Cơ học Việt Nam chế tạo cách
đây gần 8 năm. Chiếc VAM thế hệ 1 (VAM-1) đã từng bay
thử nghiệm thành công tại sân bay Long Thành (Đồng Nai)
vào cuối năm 2005. Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
đánh giá cao tinh thần học hỏi, dám nghĩ dám làm của
những người tham gia dự án nhưng sau thử nghiệm thành
công đó, sự ra đời của chiếc VAM-2 đã không có cơ
hội sảy cánh lên trời, mà phải chịu số phận nhập
kho, “chưa hẹn ngày tái xuất”.
Dù
rằng, nhu cầu máy bay nhỏ ở Việt Nam rất lớn do tính
ứng dụng của loại máy bay này rộng rãi, từ cấp cứu
y tế, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, cho đến tuần tra,
bảo vệ rừng, du lịch…
Trong
khi Việt Nam thờ ơ, thì một công ty tại Campuchia đã ngỏ
ý mời ông đem máy bay VAM qua thử nghiệm, nếu thành công
họ sẽ đặt hàng mua với số lượng lớn. Nhưng khác
với ông Trân, ông Hải, ông Vimar Nguyễn không xuôi theo,
vẫn giữ hy vọng chiếc VAM-2 sẽ bay tại Việt Nam đầu
tiên. Nhưng ngày đó là ngày nào thì ông không thể biết
chắc.
Như
vậy, sự đối đãi tệ bạc trong địa hạt khoa học,
công nghệ không chừa một ai. Từ những người nghiên
cứu khoa học chính quy cho đến những tay ngang nhưng đam
mê khoa học. Nó xuất phát từ nguyên nhân gốc gác: Cơ
chế đã “chỉ đạo” khoa học.
Cơ
chế chỉ đạo trong khoa học
Về
lý thuyết, Việt Nam có đầy đủ các điều kiện hỗ
trợ cho nghiên cứu khoa học, sáng chế. Một văn bản có
liên quan trực tiếp là Luật Khoa học và Công nghệ (sửa
đổi), tại Điều 5, điểm 1 có ghi rõ nguyên tắc hoạt
động như sau: “Bảo đảm quyền tự do
sáng tạo, phát huy dân chủ trong hoạt động khoa học và
công nghệ vì sự phát triển của đất nước.”
Nhưng
trong thực tế, với thủ tục hành chính rườm rà, đố
kỵ và thờ ơ của các viên quan chức ở các ban ngành
liên quan đã khiến cho các sáng chế khoa học bị xếp
xó, giấc mơ khoa học bị ngăn trở.
Người
ta hay nhắc đến hàng ngàn giáo sư, tiến sĩ không có
sáng chế, nhưng ít ai chú ý đến nguyên nhân thực chất
của mọi hiện tượng rơi rụng khả năng nghiên cứu,
sáng chế trong xã hội chính là vấn đề cơ chế không
tạo điều kiện cho KHCN được phát triển đúng tầm.
Dẫn đến việc nghiên cứu KHCN bị ràng buộc (thiếu
kinh phí, thiếu môi trường thử nghiệm, thiếu sự ủng
hộ về mặt giấy phép), khó khăn trong tiến hành sáng
chế hoặc sau khi sáng chế, các ứng dụng thường có xu
hướng… nhập kho.
Bởi
lẽ, nhà nước ôm lấy các cơ sở NCKH từ kế hoạch cho
đến thử nghiệm, khiến tình trạng mất tự do học
thuật, độc lập khoa học xảy ra. Từ đó, dẫn đến
hiện trạng, thay vì nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, thì
nay lại đóng vai trò chỉ đạo, cưỡng ép, thúc đẩy
bằng mệnh lệnh hành chính – làm biến mất môi trường
sáng tạo. Cơ chế, chính sách kiểu “ôm đồm”đó,
cũng đã dẫn đến nạn chảy máu chất xám ở lớp sinh
viên Việt Nam tốt nghiệp ở nước ngoài. Hơn 70% không
trở về, vì cơ hội trong nước dành cho họ chỉ là con
số 0 tròn trĩnh.
Nó
(cơ chế) cũng làm sai lệch hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo khoa học khi các “hoạt động” này được tiến
hành để tăng chất đẹp hồ sơ, và làm tiền đề để
lên chức vụ theo nghĩa “khoa học lý thuyết”, chứ
chưa chạm đến “khoa học ứng dụng”.
Sự
độc quyền về mặt khoa học đã khống chế các tổ
chức, các điều luật, các quỹ có liên quan đến việc
hỗ trợ sự tự do sáng tạo khoa học tại Việt Nam. Nên
dù có Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo Việt Nam (VIFOTEC) thì chủ
yếu dừng ở mức “tôn vinh”chứ không hỗ trợ cho sự
cất cánh về mặt khoa học. Dễ dàng nhìn thấy điều
này thông qua sự vắng mặt của VIFOTEC trong công trình
tàu ngầm của hậu duệ cụ Phan Bội Châu – ông Phan Bội
Trân.
Tiếp
đến là cơ chế khiến cho các hoạt động nghiên cứu,
sáng chế chưa tạo được sự quan tâm, khuyến khích đúng
mức. Ngay trong Dự luật Khoa học và công nghệ (KHCN) sửa
đổi, chỉ chi có 2% GDP cho hoạt động này, quá ít ỏi
so với tầm quan trọng của KHCN trong đời sống kinh tế,
xã hội. Không tương xứng so với vị trí mà nó được
ghi nhận trong Nghị quyết T.Ư 6 về phát triển KH&CN
đến năm 2030 và Điều 6, điểm 1, trong Dự luật Khoa học
và Công nghệ: “Huy động mọi nguồn lực
đầu tư, áp dụng đồng bộ các cơ chế, biện pháp
khuyến khích, ưu đãi nhằm phát huy vai trò then chốt và
động lực của khoa học và công nghệ”.
Ngay
như chương trình 68 (giai đoạn 2011-2015) vốn được đánh
giá là hỗ trợ rộng hơn và cơ chế quản lý linh hoạt
hơn trong hoạt động KHCN, đặc biệt là phát triển tài
sản trí tuệ, cũng chỉ mang tính “hỗ trợ” cho các
viện, trường đại học, tổ chức khoa học và công
nghệ, chứ chưa đi sâu vào cá nhân. Chính điều đó đã
dẫn đến hiện tượng người sáng chế bị bỏ rơi, cụ
thể như trường hợp Lê Văn Đáo ở Khoái Châu,
Hưng Yên, vốn chế được thuốc trừ sâu từ dược
thảo, không độc hại cho con người nhưng vì không có ai
đứng ra bảo trợ, không có cơ quan tổ chức nào đứng
ra nghiên cứu đầu tư phát triển và nhân rộng nên bị
bỏ dở.
Chưa
kể, trách nhiệm của Sở Khoa học - Công nghệ địa
phương trong việc hỗ trợ, đánh giá các sản phẩm
nghiên cứu của người dân khá mờ nhạt. Chủ yếu áp
đặt cái “tiền lệ”lên cái “sáng tạo, khiến cho
các lệnh cấm/ dỡ bỏ công trình sáng chế thường xuyên
được áp dụng. Nghĩa là tinh thần, đam mê khoa học gần
như không được các cơ quan chức năng có liên quan khuyến
khích.
“Cởi
trói” hay là chết
Tài
sản lớn nhất của một đất nước là con người, sự
sáng tạo cá nhân, kỹ năng và tài năng của người dân
đất nước đó bởi sáng tạo chính là động lực của
phát triển. Nhưng với cách đối đãi tệ hại như thế
này đối với các cá nhân, khiến cho họ không có đất
dụng võ ngay trên quê hương thì hỏi sao nền khoa học –
công nghệ Việt Nam trở nên trì trệ, thiếu linh hoạt.
Chính nó đã khiến cho các nỗi lo sợ bị cấm khi sáng
chế luôn hiện hữu trong đầu mỗi người dân. “Nếu
nhà nước cho phép, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, chứ
không thì đành dừng lại thôi”, đó là lời chia sẻ
của ông Bùi Hiển (Thuận An, tỉnh Bình Dương), người
chế tạo ra máy bay và đang chờ… giấy phép thử nghiệm.
Sáng
tạo, thử nghiệm sợ… cấm. Thì liệu còn ai đủ sức
để mà nghiên cứu, sáng chế nữa???
Cơ
chế hiện nay là tính rập khuôn, gần như cố định,
trong khi sáng tạo cần sự biến thiên. Nếu bản thân cơ
chế, chính sách không theo kịp, hoặc không bắt lấy tinh
thần khoa học trên tinh thần tự do, mà chỉ chăm vào áp
dụng các điều khoản “hành là chính” thì “vượt
rào sáng chế” sẽ là câu chuyện dài, kết thúc thường
không có hậu.
Hệ
quả là nhãn tiền là theo khảo sát của Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) cho biết, chỉ số sáng tạo của người
Việt Nam hiện đứng ở vị trí 16/24 nước. Chỉ số này
là một phần trong nghiên cứu tổng thể của ADB về nền
kinh tế tri thức của châu Á.
Không
nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn Campuchia đối đãi với cha
con ông Trần Quốc Hải hay việc họ sẵn sàng tiếp nhận
VAM-2 là đủ biết cơ chế nào đã và đang tạo điều
kiện cho khoa học, công nghệ phát triển.
Giới
quan chức, những nhà hoạch định chính sách về khoa học,
công nghệ liệu có đau lòng không khi ông Trần Quốc Hải
thổ lộ: “Người Campuchia rất thân thiện và tạo điều
kiện cho tôi thực hiện những đam mê của tôi nên tới
đây chắc tôi sẽ tiếp tục hợp tác với họ.”
----------------------
TIN
LIÊN QUAN :
No comments:
Post a Comment