Thomas
A. Bass
Phạm
Nguyên Trường dịch
Tháng
11 3, 2014
ĐIỆP
VIÊN HOÀN HẢO?
Cho
đến nay, đã có sáu cuốn sách viết về Phạm Xuân Ẩn, ba cuốn bằng tiếng Việt, một
cuốn bằng tiếng Pháp, và hai cuốn bằng tiếng Anh. Tiểu sử “chính thức” do ông
kể, cuốn Điệp viên hoàn hảo, được xuất bản ở Mĩ năm 2007 và một năm sau
đó thì được dịch sang tiếng Việt. “Chúng tôi đã bôi đỏ cả cuốn sách”, một người
am hiểu về xuất bản ở Việt Nam cho biết. Nói cách khác, các nhà kiểm duyệt Việt
Nam đã tô đậm thêm màu yêu nước trong bức chân dung đã được chọn lọc của một
anh hùng dân tộc.
Ngay
từ nhan đề trở đi, người ta đã hiểu rằng Điệp viên hoàn hảo miêu tả Phạm
Xuân Ẩn là một người vì dân tộc và một nhà ái quốc của Việt Nam. Cuốn sách này
cũng khẳng định rằng ông đã vui vẻ nghỉ hưu khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc
năm 1975. Vấn đề là, dường như đó không phải là sự thật. Mỗi điệp viên đều có
một vỏ bọc, họ giấu cuộc đời đằng sau vỏ bọc đó trong khi phải sống hai cuộc
đời, còn trường hợp của Phạm Xuân Ẩn là những bốn cuộc đời, vì, có lúc ông làm
việc cho Phòng Nhì (Deuxième Bureau) của Pháp, lúc thì làm việc cho CIA,
lúc thì làm việc cho cơ quan tình báo của cả miền Nam lẫn miền Bắc Việt Nam.
Công tác gián điệp cho Pháp được thực hiện ngoài giờ làm việc, lúc đó ông đóng
vai người kiểm duyệt tại bưu điện, xử lí những điện tín của Graham Greene gửi
cho tờ Paris Match. Công việc của ông cho người Mỹ thì bao gồm cả việc
ông được Edward Lansdale và những nhân viên CIA khác đào tạo về chiến tranh tâm
lý trong những năm 1950.
Công
việc ông làm cho tình báo miền Nam Việt Nam, nơi ông từng là cánh tay phải của
trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, được coi là đã chấm dứt năm 1962, khi ông Tuyến bị
sa thải sau một cuộc đảo chính bất thành. Nhưng ông vẫn giữ liên lạc với Trần
Kim Tuyến, người vẫn là lão làng trong việc “kích hoạt những cuộc đảo chính”.
Ông đã cung cấp thực phẩm và thuốc men cho ông Tuyến khi điệp viên bậc thầy này
bị quản thúc tại gia (chắc chắn trong những lô quà gửi có cả thông tin nhét
kèm). Sau đó, ông còn giúp ông Tuyến một lần cuối cùng nữa. Ông đã cứu mạng
sống cho ông Tuyến. Bức ảnh nổi tiếng năm 1975 chụp chiếc máy bay trực thăng
cuối cùng của Mỹ rời mái nhà số 22 đường Gia Long cho thấy một cái thang ọp ẹp
bắc lên trực thăng. Người cuối cùng trèo lên thang – nhờ sự can thiệp của người
từng là cánh tay phải của mình – là Trần Kim Tuyến. Vì sao Phạm Xuân Ẩn lại
giúp trùm tình báo miền Nam trong một thời gian dài thoát khỏi tay cộng sản? “Tôi biết rồi sẽ gặp rắc rối”, Phạm Xuân
Ẩn nói với tôi. “Đó là trùm tình báo, một
nhân vật quan trọng cần phải bắt ngay, nhưng ông ấy là bạn tôi. Tôi mắc nợ ông
ấy.” Ai biết được những ràng buộc nào của lòng trung thành đã giúp vào
chuyện này, hay bao nhiêu câu hỏi khó trả lời sẽ không bị đặt ra nữa, khi ông
Tuyến bay thoát, sang sống lưu vong ở Anh.
Phạm
Xuân Ẩn đã dùng vỏ bọc là một nhà báo trong suốt 20 năm, nhưng khi Chiến tranh
Việt Nam kết thúc, vỏ bọc này mất giá trị thì ông xây dựng được vỏ bọc thứ
hai – đóng vai một chiến lược gia tầm cỡ thế giới vui hưởng tuổi hưu và
suốt ngày tán gẫu với các nhà báo và du khách phương Tây khác. Tôi vừa được xem
đoạn phim nữ diễn viên Hollywood Tiana Silliphant, một người Việt tị nạn, phỏng
vấn Phạm Xuân Ẩn năm 1988. Lúc đó Tiana đang thu thập tài liệu cho bộ phim tài
liệu có tên Từ Hollywood đến Hà Nội. Trong cuộc phỏng vấn, Phạm Xuân Ẩn
tình cờ ngồi trên bậc thềm trước nhà ông, đằng sau không phải một mà là hai con
béc-giê Đức canh chừng. Tiana hỏi thẳng về những người mà ông đã phản bội và
những người bạn đã bỏ mạng vì hoạt động gián điệp của chính ông. Phạm Xuân Ẩn
nhướn tròn mắt rồi đảo ngang liếc dọc. Người ta thấy ông đưa ra câu trả lời
ngay tại trận, bằng cách bắt đầu lái câu chuyện nhằm xây dựng vỏ bọc thứ hai
của mình. “Tôi đã nghỉ hưu trong quân đội
cách đây vài tuần”, ông nói. “Tôi
không bao giờ phản bội bất kì ai.”
Phạm
Xuân Ẩn nói trong băng thu âm rằng ông nghỉ hưu trong quân đội năm 1988. Nhưng,
cũng trong băng thu âm, ông lại nói rằng đã nghỉ hưu năm 2002 và một lần khác
thì nói là năm 2005. Khi khách thấy một chiếc TV lớn, màn ảnh phẳng, trong
phòng khách nhà ông, thì ông nói đó là quà hưu trí do “bạn bè” ở Tổng cục II –
cơ quan tình báo quân sự Việt Nam – tặng. Có nhiều khả năng là Phạm Xuân Ẩn
không bao giờ nghỉ hưu, ông vẫn là một thành viên của cơ quan tình báo cho đến
khi qua đời. Dưới vỏ bọc đầu tiên,
đóng vai một nhà báo, ông làm điệp viên từ những năm 1950 cho đến khi Chiến
tranh Việt Nam kết thúc năm 1975. Dưới
vỏ bọc thứ hai, đóng vai một chiến lược gia đã nghỉ hưu, ông làm điệp viên
thêm ba mươi năm nữa – thậm chí còn lâu hơn giai đoạn đầu trong sự nghiệp của
mình. Những gì mà ông, một nhân viên tình báo vẫn còn hoạt động, đã làm trong
thời gian này thì hiện chưa ai biết, nhưng chắc chắn là ông đã viết báo cáo về
những người khách đến thăm ông và đưa ra các phân tích chính trị mà ông rất
thành thạo. Với những câu chuyện đầy vẻ châm biếm về sự thất bại của những
người cộng sản trong việc “cải tạo” ông, Phạm Xuân Ẩn đã đánh lạc hướng mọi
nghi ngờ rằng ông vẫn là một điệp viên đang hoạt động. Mãi sau khi ông qua đời,
khía cạnh này của cuộc đời ông mới được tiết lộ, qua bài diễn văn mà Tướng
Nguyễn Chí Vịnh – lúc đó đang lãnh đạo Tổng cục II – đọc tại lễ tang Phạm Xuân Ẩn.
Tướng Vịnh nói về “thành tựu quân sự đặc biệt” của Phạm Xuân Ẩn, khi ông sống
“trong lòng địch”, và liệt kê một loạt huân, huy chương quân sự, mỗi tấm đều
thể hiện một câu chuyện quan trọng về cuộc đời ông.
Theo
một tham chiếu vắn tắt trong cuốn Điệp viên hoàn hảo, Phạm Xuân Ẩn đã
được tặng mười huân huy chương khác nhau. Nhưng thực ra, tổng cộng là mười sáu,
trong số đó có sáu huân huy chương được trao sau năm 1975. Mười bốn
trong tổng số và bốn trao sau năm 1975 là những huân huy chương chiến
công. Đấy không phải là vì những thành tích trong việc phân tích chiến lược, mà
là vì những chiến công quân sự cụ thể. Phạm Xuân Ẩn được trao huân huy chương
cho những đóng góp chiến thuật ở nhiều trận đánh khác nhau, từ Ấp Bắc
năm 1963 và Ia Đrăng năm 1965 đến Tết Mậu Thân năm 1968 và tiếp theo là Chiến
dịch Hồ Chí Minh, dẫn đến kết thúc cuộc chiến tranh năm 1975. Ông có những thành tích gì để
được trao thêm bốn huân chương chiến công sau năm 1975, điều đó không ai
biết.
Không
tính đủ số huân huy chương của Phạm Xuân Ẩn, lờ đi tầm quan trọng của chúng, và
bỏ qua sự kiện là nhiều tấm đã được trao sau năm 1975 là một phần của chiến
dịch nhằm biến Phạm Xuân Ẩn thành một “điệp viên hoàn hảo”, một nhân vật ôn hòa
– tương tự như Hồ Chí Minh – tách khỏi sự bạo lực kinh hoàng khắc họa nên những
cuộc chiến tranh chống thực dân của Việt Nam. Trong Điệp viên hoàn hảo,
những khía cạnh khác trong sự nghiệp của Phạm Xuân Ẩn đã bị cắt bớt hoặc lấp
liếm đi. Những lời chỉ trích của ông về sự bất tài và tham nhũng của cộng sản,
những lời nhận xét chua chát của ông về ảnh hưởng của Nga ở Việt Nam, những lời
tấn công của ông trước sự can thiệp của Trung Quốc vào những vấn đề quốc gia,
câu chuyện của ông về việc bị đưa đi “cải tạo” năm 1978, và sự phản đối của ông
đối với phe thân Trung Quốc đang nắm quyền đã được làm nhẹ bớt đi. Những tình
tiết giải thích lý do vì sao vợ và bốn người con của ông được đưa sang Mĩ năm
1975 và một năm sau lại được đưa về Việt Nam cũng được giảm nhẹ hoặc bỏ qua.
Trong phiên bản dành cho công chúng thưởng thức, và theo tường thuật của người
viết tiểu sử “chính thức” của Phạm Xuân Ẩn thì vào thời điểm chiến tranh kết
thúc, ông vẫn ở Sài Gòn để chăm sóc mẹ bị ốm. Trong thực tế, các cơ quan tình
báo Việt Nam đã lập kế hoạch đưa Phạm Xuân Ẩn tới Mĩ để tiếp tục làm gián điệp
cho cộng sản. Khi kế hoạch này bị Bộ Chính trị bác bỏ thì ông mới buộc phải ở
lại Việt Nam và đưa gia đình trở về. Thông tin về những hoạt động thời hậu
chiến của Phạm Xuân Ẩn cho thấy Việt Nam đã có kế hoạch – và chắc chắn là thành
công – trong việc cài gián điệp vào Mĩ trong giai đoạn kết thúc chiến tranh. Nó
cũng cho thấy sự rạn nứt giữa các cơ quan tình báo và Bộ Chính trị mà bộ máy
tuyên truyền của Việt Nam muốn bôi xóa bằng câu chuyện về người mẹ bị ốm.
Khi
những mảng tối được ghép trở lại vào cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn, các nhà kiểm
duyệt chắc chắn sẽ phản đối câu chuyện chưa-hoàn-hảo về ông. Thật vậy, họ sẽ
mất năm năm để viết lại câu chuyện và đấu tranh để nó càng gần với phiên bản
chính thức thì càng tốt. Nước cờ của Nhã Nam đã sai. Một cuốn sách của một
người phương Tây viết về Phạm Xuân Ẩn được dịch và xuất bản ở Việt Nam không có
nghĩa là cuốn thứ hai sẽ dễ dàng được thông qua. Thật vậy, như gần đây chúng ta
được biết, ngay cả phiên bản đã “tô hồng” cuộc đời của Phạm Xuân Ẫn cũng khó lọt.
Điều này được tiết lộ trong một bức điện tín của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào tháng
9 năm 2007, do Wikileaks công bố năm 2011. Bức điện – do một quan chức
trong Lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh đánh đi – cho biết bản dịch tiếng
Việt tác phẩm Điệp viên hoàn hảo, dù được một nhà xuất bản quốc doanh ấn
hành, suýt nữa thì bị các nhà kiểm duyệt ở Bộ Công an nghiền thành bột. Họ phản
đối “nhiều lời phàn nàn của Phạm Xuân Ẩn rằng Việt Nam chỉ đơn giản là thay một
bạo chúa này bằng một bạo chúa khác – Liên Xô – và những lời phê phán của ông
về chính sách thời hậu chiến”. Các biên tập viên đã gặp rắc rối vì đã “ủng hộ
việc xuất bản cuốn sách, trong đó, một trong những anh hùng nổi tiếng nhất của
đất nước đã tung ra những lời tấn công mãnh liệt vào chính sách của chính phủ
Việt Nam thời hậu chiến và tính chất khép kín của xã hội Việt Nam”. Theo bức
điện của vị lãnh sự thì “phe ủng hộ cải cách trong chính phủ Việt Nam “chỉ
giành được” thế thượng phong đối với “phe chống đối cải cách” khi đích thân Chủ
tịch nước Việt Nam ủng hộ việc xuất bản cuốn sách này.
Những
câu chuyện về kiểm duyệt ở Việt cho thấy chế độ thượng tôn luật pháp được thay
thế bằng chế độ thượng tôn luật rừng như thế nào. Những kẻ nắm quyền sẽ làm mọi
thứ có thể để bảo vệ đặc quyền của họ. Tôi thì lo lắng về những chuyện đó,
nhưng nhiều người lại ngáp khi tôi nói với họ về việc kiểm duyệt ở Việt Nam. “Ông hi vọng gì nhỉ?”, họ nói. “Có gì đáng ngạc nhiên đâu”. Ngay cả
những người bạn Việt Nam của tôi cũng đầu hàng số phận và có một niềm tin kỳ lạ
rằng họ có thể đọc được những gì ẩn giữa hai hàng chữ”. “Tôi có thể đoán được tác phẩm bị cắt ở chỗ nào”, nhà văn Bảo Ninh
khẳng định với tôi. “Chúng tôi biết những
gì bị cắt. Chúng tôi chỉ không thể nói về những điều này mà thôi”.
Thật
khó lập luận để chống kiểm duyệt khi sự vô liêm sỉ lan tràn, nhưng Amartya Sen,
người từng được Giải Nobel về kinh tế, gần đây đã có một nỗ lực đáng trân
trọng. Trong một tiểu luận viết cho tạp chí Chỉ số Kiểm duyệt (Index on
Censorship) năm 2013, Sen đã lên án Ấn Độ, quê hương ông, vì ý tưởng bắt chước
Trung Quốc, một đất nước dường như đang là hình mẫu về việc các chính phủ độc
tài có thể đánh đổi tự do cá nhân lấy tăng trưởng kinh tế. Sen khẳng định quan
điểm ngược lại, rằng “tự do báo chí là tối quan trọng đối với sự phát triển”.
Tự do ngôn luận có “giá trị tự thân”, ông nói. Nó là “điều kiện thiết yếu của
nền chính trị có kiến thức”. Nó cho “những người kẻ yếu thế và bị xao lãng” một
tiếng nói, và nó vô cùng cần thiết cho sự “hình thành những ý tưởng mới”. Dường
như lúc này Trung Quốc vẫn đang khá thành công, nhưng Sen – nhà kinh tế học với
công trình đoạt giải về sự khan hiếm – nhắc nhở chúng ta, điều gì sẽ xảy ra khi
lấy tuyên truyền thay thế thông tin.
“Hệ
thống độc tài nào cũng có những điểm dễ tổn thương khó tránh”, ông viết. Trong
thời gian qua, hiện tượng này xảy ra ở Trung Quốc, với những cuộc cải cách
ruộng đất trong giai đoạn Đại Nhảy vọt, khiến nước này phải trải qua một trong
những nạn đói khủng khiếp nhất trên thế giới. “Nạn đói ở Trung Quốc giai đoạn
1959-1962… làm ít nhất 30 triệu người thiệt mạng khi chế độ bất lực không hiểu
chuyện gì đang diễn ra và áp lực của công chúng – như trong một nền dân chủ vận
hành bình thường – lại không hiện diện để chống lại chính sách của chính phủ.”
“Những
sai lầm của chính sách vẫn được duy trì suốt ba năm diễn ra nạn đói khủng khiếp
đó”, Amartya Sen nói. “Hệ thống kiểm duyệt và kiểm soát truyền thông của nhà
nước đã che giấu thông tin hoàn hảo đến mức chính phủ cũng bị bộ máy tuyên
truyền của chính mình lừa bịp và tưởng rằng đất nước có 100 triệu tấn gạo nhiều
hơn là trong thực tế. Cuối cùng, đích thân Chủ tịch Mao đã đọc một bài phát
biểu nổi tiếng năm 1962, phàn nàn về “thiếu dân chủ”, một sự thiếu với hậu quả
chết người. Ấn Độ và những nước khác trên thế giới có thể muốn noi theo Trung
Quốc, khi nước này có tốc độ tăng trưởng lên đến hai con số, nhưng Amartya Sen
cho rằng chỉ có ngu mới đi áp dụng các biện pháp bài dân chủ, tức những biện
pháp làm suy yếu chính hệ thống toàn trị và khiến chúng dễ tin vào những lời
dối trá của chính mình.
NHỮNG
THÓI QUEN THỜI CHIẾN
Ông
Nguyễn Thế Vinh, biên tập viên của Nhà Xuất bản Hồng Đức, là người kiểm duyệt
cuối cùng mà tôi gặp trong chuyến thăm Việt Nam của tôi. Tôi đã đến một hội chợ
sách ở Hà Nội để kí tặng sách và sau đó ngồi bàn chủ tọa buổi thảo luận về cuốn
sách của tôi. Cạnh tôi là ông Vinh, khô khan, thích sách hơn thích tác giả, như
nhiều biên tập viên khác, và một quý ông nữa, ông Dương Trung Quốc, người cũng
dự phần trong việc xuất bản cuốn sách của tôi. Ông Quốc là một nhà sử học và
một nhà chính trị. Tôi không biết ông viết kiểu lịch sử nào, nhưng là một đại
biểu Quốc hội Việt Nam thì ông Quốc – một người niềm nở, trông như một Bill
Clinton của Việt Nam – hẳn là một nhà chính trị thành công.
Tôi
tìm cách che giấu sự khó chịu vì hầu hết buổi tối hôm đó được dành để thảo luận
về Phạm Xuân Ẩn, như một “điệp viên hoàn hảo”. Xin nhớ rằng, ông Vinh đã biên
tập và kiểm duyệt cả hai cuốn, cả tiểu sử “chính thức” của Phạm Xuân Ẩn lẫn tác
phẩm của tôi. Người ta bảo tôi là nên giữ mồm giữ miệng và đừng làm hỏng việc
bán cuốn sách của tôi. Cực hình này kéo dài suốt bữa tối, tôi thì vẫn giữ mồm
giữ miệng, trong khi ông Vinh và ông Quốc đánh chén một bữa thịnh soạn. Dù đã
cắt gọt tác phẩm của tôi lần cuối, nhưng hai vị này là những người có thế lực
để tác phẩm này được xuất bản. Tôi nợ họ mấy đồng nhuận bút, mà tôi nghĩ rằng
sẽ đem tặng cho vài trong hàng triệu sinh linh nghèo túng trong cộng đồng Việt
sau chiến tranh ở hải ngoại. Lúc chúng tôi chuyển từ món rau xào sang cá hấp
thì lưỡi tôi đã đủ trơn để bắt đầu nói về đề tài kiểm duyệt.
“Theo luật thì ở
Việt Nam không có kiểm duyệt”, ông Vinh nói. “Chủ yếu là chúng tôi tự kiểm duyệt.”
Ông
Quốc, nhà chính trị, đồng ý với người bạn văn chương của mình. “Ở Việt Nam, kiểm duyệt nằm trong não trạng
của tất cả mọi người”, ông nói. “Biên
tập viên đã cắt gọt tác phẩm của bạn, chứ không phải là chính phủ.”
Tôi
đề nghị họ lí giải sâu hơn, vì sao một đất nước không có bộ máy kiểm duyệt lại
kiểm duyệt được nhiều người cầm bút đến như thế. “Tất cả các nhà xuất bản đều của nhà nước”, ông Vinh nói. “Mọi người làm việc trong hệ thống đều hiểu
điều đó. Vì mục tiêu cao hơn của dân tộc, họ phải hy sinh một cái gì đó. Ở Việt
Nam chúng tôi có câu: Giết lầm còn hơn bỏ sót”.
Ông
Quốc để một nụ cười lan ra trên mặt, trước khi nhẹ nhàng nhắc bạn. “Anh nói cứ như chính trị viên”, ông
bảo.
Cũng
trong buổi tối hôm đó, rồi ông Quốc sẽ gợi ý vì sao cuốn sách của tôi cuối cùng
đã được ấn hành sau năm năm bị chặn. “Những
cuốn tiểu sử tự thuật của Phạm Xuân Ẩn đều là tác phẩm tốc ký”, ông nói. “Người ta in những gì ông ấy bảo họ in. Cuốn
sách của ông khác hẳn. Nó được ghi chép và nghiên cứu, nhưng quan trọng hơn, nó
nắm bắt được con người của Phạm Xuân Ẩn. Đó là lý do vì sao tôi nghĩ rằng phải
xuất bản tác phẩm này.”
Tôi
nhận lời khen, nhưng lưu ý rằng cuốn sách xuất bản ở Việt Nam không thực sự là
tác phẩm của tôi. Đó chỉ là một đoạn quảng cáo để bán, còn một bản dịch tiếng
Việt hoàn chỉnh chỉ có thể lưu hành ở bên ngoài, khi cuốn sách được dịch lại và
phát hành ở Berlin, trong một file lưu trữ ở một chiếc máy tính được gia cố
nhằm chống lại những cuộc tấn công của các nhà kiểm duyệt của Việt Nam. Việc
Việt Nam có các nhà kiểm duyệt tìm cách với tay ra khắp thế giới và vô hiệu hóa
đến cả máy tính ở Berlin khiến những nhân viên này ít hiền lành hơn nhiều so
với điều mà ông Vinh muốn tôi tin. Trong trường hợp này, các nhà kiểm duyệt
không làm việc như những người làm vườn tự do, cắt tỉa tạo dáng cây cảnh trong
đầu óc họ, mà như những nhà hoạt động chính trị thực hiện mệnh lệnh tấn công
người ở nước ngoài.
Khi
chúng tôi chuyển từ cá sang thịt nướng thì ông Quốc tỏ ý là ông sẽ cho tôi biết
riêng một thông tin quan trọng. Sau khi chiến tranh kết thúc, Phạm Xuân Ẩn
không chỉ tiếp tục làm việc như một điệp viên, mà còn làm việc đó ở cấp cao
nhất. “Sau chiến tranh, ông ấy là hiệu trưởng Trường Tình báo Quân sự ở
thành phố Hồ Chí Minh”. Tám tháng ở Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc năm 1978 ở
Hà Nội là để chuẩn bị cho nhiệm vụ quan trọng này.
Tôi
không thấy bằng chứng nào chống lưng cho phát ngôn này, và, quả thực, tôi ngờ
rằng đấy là một phần của chiến dịch tuyên truyền nhằm biến Phạm Xuân Ẩn thành
một cán bộ hoàn hảo. Lời tuyên bố này lại càng vô lí hơn, vì lúc trước, cũng
trong buổi tối hôm đó, ông Quốc đã thừa nhận rằng Phạm Xuân Ẩn là người miền
Nam, từng làm việc cho Mỹ, các đồng nghiệp miền Bắc không bao giờ tin ông. “Những người như Phạm Xuân Ẩn không được
chính phủ tin cậy”, ông nói. “Có rất
nhiều câu hỏi về ông ấy.” Rõ ràng là còn lâu những câu hỏi này mới tìm được
câu trả lời. “Ít nhất là bảy mươi năm nữa
thì các tài liệu ở Việt Nam mới được giải mật”, ông Quốc nói.
Sau
đó, để xác minh phát ngôn của ông Quốc về việc Phạm Xuân Ẩn từng là hiệu trưởng
Trường Tình báo của Việt Nam, tôi đã đến thăm Bùi Tín trên căn buồng áp mái một
phòng của ông ở Paris. Bùi Tín cũng là một phóng viên tình báo nổi tiếng. Ông
là Phó Tổng biên tập báo Nhân dân, khi viết một bài xã luận vào mùa Xuân
năm 1990, ca ngợi sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ và việc đưa các cải cách dân
chủ vào thế giới cộng sản. Lúc đó ông sắp bị Bộ Chính trị – đang chuẩn bị ký
thỏa thuận liên minh bí mật Việt-Trung – sa thải. (“Thoả thuận Thành Đô tháng 9 năm 1990 là khởi đầu của
quá trình thực dân hóa do Trung Quốc tiến hành ở Việt Nam”, Bùi Tín nói.)
Để tránh bị bắt, Bùi Tín để vợ và hai người con ở Hà Nội và bay sang Paris dự
hội nghị các biên tập viên báo chí cộng sản. Sau hội nghị, ông không trở về
nước. Ông nghĩ rằng một hoặc hai năm nữa tình hình sẽ hoàn toàn thay đổi. Lực
lượng tiến bộ của Việt Nam sẽ giành được thế thượng phong và sẽ đưa cải cách
dân chủ vào nước này. Hai mươi lăm năm sau, Bùi Tín vẫn còn ở Paris, trong khi
vợ ông – từ năm 1990 đến nay ông chưa gặp lại bà lần nào – vẫn nằm “dưới sự
giám sát chặt chẽ” ở Hà Nội.
Là
đại tá quân đội và người thân tín của Tướng Giáp, đồng thời là đồng nghiệp báo
chí, kết bạn với Phạm Xuân Ẩn sau khi hai người gặp nhau năm 1975, Bùi Tín là
một nguồn đáng tin cậy để thẩm định thông tin do ông Quốc đưa ra. “Đúng, Phạm Xuân Ẩn đã viết báo cáo về những
người khách đến thăm”, Bùi Tín khẳng định, và “thỉnh thoảng người ta cũng đề nghị ông ấy giảng dạy cho những tình báo
viên của Bộ Nội vụ được đào tạo ở Sài Gòn. Nhưng ông ấy chưa bao giờ làm to,
chưa bao giờ làm hiệu trưởng Trường Tình báo. Chính phủ coi ông ta là một công
cụ thú vị. Ông ta là một món đồ trang trí để họ chơi và ngắm nghía. Dùng ông ta
để tuyên truyền thì tốt, nhưng họ không bao giờ tin ông ta.”
Bất
chấp những phát ngôn đáng ngờ của ông Quốc, tôi đã thân với ông hơn, khi chúng
tôi uống hết vại bia này đến vại bia khác và kết thúc buổi tối với những cái
tăm cắm miệng, tín hiệu rằng đã ăn uống thỏa thuê. Ông Quốc còn làm tôi ngạc
nhiên bằng một lời thú nhận khác. Khác với ngày xưa, ông nói, chính phủ Việt
Nam không còn là tập hợp của những người khổng lồ về trí tuệ và những thiên tài
quân sự. “Chính phủ Việt Nam bây giờ
không đủ thông minh để có thể cho phép một Phạm Xuân Ẩn làm những việc mà ông
ấy đã làm”, ông nói. “Phải dũng cảm
và thông minh thì mới chỉ huy được một nhà tình báo như thế. Nói bằng tiếng Anh
thế nào nhỉ? ‘Nạn nhân đầu tiên của chiến tranh là sự thật’. Ở Việt Nam, chúng
tôi vẫn còn những thói quen của thời chiến.”
Lúc
này, bạn bè vui vẻ sau khi đã chén tạc chén thù, đồng ý với nhau về hầu như tất
cả mọi thứ, những người kiểm duyệt tác phẩm của tôi và tôi bắt đầu nâng cốc
chúc mừng nhau, nào, cạn li.
Bản
tiếng Việt “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam”
Copyright © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra & Thomas A. Bass
Copyright © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra & Thomas A. Bass
Bài
liên quan:
Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Thomas
A. Bass – Rừng
Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam
(4)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (Toàn bài trong bản PDF)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (Toàn bài trong bản PDF)
No comments:
Post a Comment