Nguyễn
Điền
Cập
nhật lần cuối 12/11/2014
Triển
lãm này đã khơi dậy một giai đoạn lịch sử kinh hoàng
ở nông thôn miền Bắc 60 năm trước tưởng như đã bị
quên lãng.
Xuất
bản phẩm của ĐCSVN luôn ca ngợi CCRĐ là đã đạt thắng
lợi “ to lớn, căn bản, có tính chất chiến
lược ” với những kết quả : “ đánh
đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến,... hoàn toàn
giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến có từ hàng
nghìn năm ở nước ta, đưa giai cấp nông dân ở miền
Bắc lên địa vị thật sự làm chủ nông thôn ”.
[Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương: 50 năm hoạt
động của ĐCSVN. HN, Nxb Sự Thật, 1979; tt 131-132].
Trang
mạng của ĐCSVN viết :
“ Việc
thực hiện từng bước chính sách ruộng đất của Đảng
từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến đầu nǎm 1953 đã
tạo ra những chuyển biến sâu sắc về sở hữu ruộng
đất và quan hệ giai cấp ở nông thôn. Tuy vậy, chế độ
chiếm hữu và bóc lột phong kiến chưa bị thủ tiêu,
khẩu hiệu “ Người
cày có ruộng ”
chưa
được giải quyết cǎn bản, giai cấp địa chủ vẫn tồn
tại. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, Đảng
ta tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất, hoàn thành
nhiệm vụ chống phong kiến... Tháng 11-1953, Hội nghị Ban
chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 quyết định cải
cách ruộng đất, đề ra chủ trương, biện pháp tiến
hành cải cách ruộng đất... Cải
cách ruộng đất được thực hiện ngay trong lúc cuộc
kháng chiến đang trên thế đi tới thắng lợi. Đó là
một chủ trương đúng đắn của Đảng,
đã kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thành
quả của nó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của
chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên
Phủ.
Hoà bình lập lại, miền Bắc bước vào giai đoạn mới,
Đảng tiếp tục đẩy mạnh cải cách ruộng đất, hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tạo điều kiện cho việc khôi phục và phát triển kinh
tế để củng cố miền Bắc làm cơ sở cho cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà. Kết quả đã phát động
quần chúng giảm tô trong tám đợt bao gồm 1875 xã với
1.106.955 hécta ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất
trong 5 đợt bao gồm 3653 xã (toàn bộ vùng đồng bằng và
trung du miền Bắc), đã chia 810.000 hécta ruộng đất cho
hơn 2 triệu hộ nông dân, tức 72,8% tổng số hộ nông
dân ở miền Bắc... Như vậy, thực
hiện cải cách ruộng đất, đã xoá bỏ chế độ chiếm
hữu ruộng đất và bóc lột của giai cấp địa chủ
phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất của nông
dân,
bước
đầu thực hiện dân chủ hoá về mặt kinh tế đối với
nông dân – cơ sở của dân chủ về mặt chính trị ở
nông thôn.”
[Kinh
nghiệm giải quyết vấn đề ruộng đất trong cách mạng
Việt Nam.
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30061&cn_id=210413 ]
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30061&cn_id=210413 ]
Tài
liệu này cũng công nhận :
“ Trong
khi tiến hành cải cách ruộng đất, bên cạnh những
thắng lợi cǎn bản, Đảng ta đã phạm một số sai
lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo thực hiện mà
sau một thời gian mới phát hiện được. Do chủ quan,
giáo điều, không xuất phát đầy đủ từ thực tiễn
nước ta, nên không thấy rõ được những thay đổi quan
trọng về sở hữu ruộng đất ở nông thôn Việt Nam từ
sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong 9 nǎm kháng chiến.
Từ đó, trong chỉ đạo tiến hành cải cách ruộng đất
đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông
thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu
tranh, gây ra tình trạng đánh nhầm vào nội bộ nông dân,
nhất là trung nông lớp trên. Trong chỉnh đốn tổ chức,
đã nhận định sai về tổ chức cơ sở đảng ở nông
thôn, cho là bị địch lũng đoạn. Từ đó, trong chỉnh
đốn Đảng đã dẫn đến việc xử lý oan những cán bộ,
đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn
thất cho Đảng. Việc tổ chức ra một hệ thống tổ
chức chỉ đạo cải cách ruộng đất từ Trung ương đến
cơ sở tách rời sự chỉ đạo và kiểm soát của các
cấp uỷ đảng ở khu, tỉnh, huyện ; hệ thống này
được giao quyền hạn quá rộng, dẫn đến mệnh lệnh,
độc đoán, hạ thấp vai trò lãnh đạo của các cấp bộ
đảng, nhiều cán bộ theo đuôi quần chúng, theo lập
trường tư tưởng của giai cấp nông dân để giải quyết
những vấn đề kinh tế - xã hội nông thôn. Hội nghị
lần thứ 10 (khoá II) của Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm trong
thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức. Đảng ta, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã công khai tự phê bình và kiên quyết
sửa chữa sai lầm. Thái độ chân thành của
Đảng được nhân dân đồng tình ủng hộ, mặc dù có
khó khǎn nhưng chỉ sau hai nǎm việc sửa sai đã
hoàn thành, uy tín của Đảng được nâng cao.”
Tuy
nhiên, những tài liệu này không viết gì về những biện
pháp tàn bạo gây kinh hoàng trong nông thôn, những giết
chóc, nhục hình, những oan khốc mà cuộc CCRĐ gây ra và
hậu quả của nó trong xã hội.
Bài
này tìm hiểu nguyên nhân cuộc CCRĐ, trình tự của nó và
nhận xét của một số chứng nhân đương thời.
Vai trò của Stalin
Trong
3 năm đầu kháng chiến chống Pháp, chính phủ Hồ Chí
Minh ở Việt Bắc bị bao vây và cô lập với thế giới
đến khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập (1/10/1949).
Lần đầu tiên lãnh thổ kháng chiến tiếp giáp một biên
giới bạn. Tìm được sự ủng hộ ngoại giao và chi viện
quân sự cũng như kinh tế cho VNDCCH là tối cần thiết.
Đầu
1950 HCM lên đường đi Bắc Kinh gặp Lưu Thiếu Kì, rồi
đến Moscow gặp Stalin và Mao Trạch Đông (Mao lúc đó đang
thăm Liên Xô).
Lúc
đó Stalin là lãnh tụ đầy quyền uy, khét tiếng tàn ác
trong gần 30 nắm quyền, đứng đầu phe cộng sản, được
người CS tôn sùng, còn HCM, tuy là chủ tịch một nước
và lãnh đạo chiến tranh chống đế quốc Pháp, nhưng
lãnh thổ bị chiếm đóng một phần và chính phủ phải
lánh trong rừng. Thêm nữa, trong thập kỉ 1930 Nguyễn Ái
Quốc bị Quốc tế CS (Comintern) coi là hữu khuynh, bị
thất thế phải “ nằm co ” ở Moscow nhiều năm
trong khi QTCS đưa “ con cưng ” của họ như Trần
Phú, Lê Hồng Phong về VN lãnh đạo ĐCSĐD. Với Stalin,
HCM còn một “ tội ” nặng nữa là đã “ giải
tán ” ĐCSĐD năm 1945, tuy thật ra ĐCS vẫn nắm mọi
địa vị chỉ huy trong mặt trận Việt Minh, chính phủ và
quân đội. Điều kiện để được Stalin (và cả Mao nữa)
ủng hộ và chi viện là HCM phải chứng minh mình là cộng
sản “ thứ thiệt ”, tức là phải phát động
đấu tranh giai cấp. Trong một nước mà nông dân là đại
đa số thì nghĩa là phải làm “ cách mạng thổ
địa ”.
Tháng
4/1950, HCM về Việt Bắc làm việc với Ban thường vụ
trung ương ĐCS. Võ Nguyên Giáp kể lại :
“ Bác
nói với chúng tôi :
“ Liên
Xô phê bình ta chậm làm cách mạng thổ địa. Đồng chí
Xtalin trỏ hai chiếc ghế rồi hỏi mình : “ Ghế
này là ghế của nông dân, ghế này là ghế của địa
chủ, người cách mạng Việt Nam ngồi ghế nào ? ”.
Tới đây chúng ta phải làm cách mạng ruộng đất. Trung
Quốc hứa sẽ giúp ta kinh nghiệm về phát động quần
chúng tiến hành cải cách ruộng đất ”. [Võ
Nguyên Giáp : Chiến đấu trong vòng vây.
HN, Nxb Quân đội nhân dân, 1995 ; tr. 412]
Trong
cuộc hội đàm tay ba giữa Stalin, Mao và HCM, Stalin cũng
khoán cho TQ nhiệm vụ chi viện cho VN và LX chỉ tiếp tế
cho VN những gì Tàu không có. Hàng tiếp tế của LX vận
chuyển qua TQ. Mao cũng nói là sẽ giúp VN những gì VN cần
mà TQ có. [William J Duiker : Ho Chi Minh.
New York: Hyperion, 2000; tr. 422]
Để
chứng tỏ VNDCCH thật sự là do một đảng CS lãnh đạo,
ĐCSĐD chính thức ra mặt công khai năm 1951 dưới tên mới
là Đảng Lao Động.
Tháng
10/1952 HCM qua Bắc Kinh đến Moscow dự Đại hội 19 ĐCSLX.
Trong thư gửi Stalin ngày 31/10/1952 HCM viết :
“ Tôi
xin gửi tới đồng chí bản dự thảo Cương lĩnh Cải
cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam. Bản dự
thảo Cương lĩnh này do tôi soạn với sự giúp đỡ của
các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường. Xin
đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này.”
[xuandienhannom.
blogspot.co.uk/2014/09/lan-au-cong-bo-2-buc-thu-cua-ong-ho-chi.html]
Năm
tháng sau (3/1953), Stalin chết. Trong buổi truy điệu Stalin
ở Việt Bắc, HCM tỏ ra đau xót cực độ. Có mặt trong
buổi lễ, Trần Đĩnh kể :
“ Trước
mặt tôi, Cụ Hồ nức nở. Không ngừng đưa khăn tay mầu
trắng lên lau nước mắt và nuớc mắt thì cứ chảy trên
hai má Cụ đỏ bóng vì khóc, vì xúc động. Xong truy điệu,
Cụ lập cập đứng lên về gian phòng dành riêng cho Cụ
ở đằng sau hội trường… Quên hộp thuốc lá Trung Hoa
Bài hình tròn ở trên ghế bên cạnh. Tôi cầm lấy nó đi
men hiên đất cao hẹp rẽ vào
phòng
Cụ.“ Dạ, thưa Bác, Bác để quên ạ ! ”.
Cụ ngửng lên nhìn và tôi bỗng thấy mình lạc lõng
quá, vô duyên quá, tọc mạch quá. Mặt Cụ xưng lên, đầm
đìa nước mắt, hai mắt húp lại, những nét tôi chợt
thấy chỉ cốt để cho mình Cụ được biết, một cái
gì hết sức bí mật, riêng tư. Cụ ngơ ngẩn nhìn tôi,
nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào làm gì, cái
hộp kia là gì và của ai...” [Trần Đĩnh : Đèn
cù. e-book, 2014 ; tr. 72]
Thấy
mức độ HCM sùng bái Stalin như thế, ta có thể chắc
chắn rằng chỉ thị của họ Xít về “ cách mạng
thổ địa ” được HCM và đảng Lao Động tuân theo
như một mệnh lệnh.
Vai trò của Trung Hoa CS
Trong thư gửi Stalin, HCM cho biết bản dự thảo Cương lĩnh Cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động “ do tôi soạn với sự giúp đỡ của các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường ”. Lúc đó Lưu Thiếu Kỳ là Phó chủ tịch TQ còn Vương Giá Tường là Đại sứ TQ ở LX.
Sau
hội đàm tay ba Stalin-Mao-HCM năm 1950 mà Stalin khoán cho Tàu
trách nhiệm chính chi viện cho VN, Tàu đã đổ vào Việt
Bắc võ khí, lương thực và cố vấn quân sự và chính
trị. Tố Hữu kể :
“ Các đồng chí Trung Quốc đã kịp thời tiếp tế cho ta lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược và cử sang ta khá nhiều cán bộ quân sự và chính trị… Núi rừng Việt Bắc chứng kiến một quang cảnh tấp nập chưa từng có của những đoàn ngựa, la thồ lúc lắc gạo mì, lương khô, cả cá, muối, đường và những đoàn xe vận tải chở đầy vũ khí. Các cán bộ quân sự và chính trị TQ trong bộ quân phục kaki vàng nhạt và mũ lưỡi trai có ngôi sao đỏ. Người thì cưỡi ngựa, người thì ngồi trên xe vận tải, có người đi bộ mang cả quang gánh, nồi niêu… Chúng ta coi các đồng chí cũng như anh em một nhà. Trong hoàn cảnh gian khổ của kháng chiến, các bạn chia sẻ khó khăn với ta, thật là quí báu.” [Tố Hữu : Nhớ lại một thời. HN: Nxb Hội nhà văn, 2000 ; tt 263-264]
Cán
bộ chính trị Tàu làm cố vấn cho Trung ương đảng Lao
Động về công tác tuyên truyền và tổ chức. Làm việc
với Tổng bí thư Trường Chinh, cố vấn Tàu phát biểu :
“ Chúng
tôi căn cứ vào kinh nghiệm TQ và kết hợp phần nào với
thực tiễn ở VN... Có lẽ trong Đảng của các đồng chí
còn bị tư tưởng địa chủ phong kiến thống trị. Ở
TQ cũng đã từng diễn ra tình hình này... nhất là ở
nông thôn và các cấp lãnh đạo, mà cán bộ phần lớn
xuất thân từ giai cấp địa chủ hoặc con em của họ.
Tuy họ đã vào Đảng và làm công chức của Nhà nước,
danh nghĩa là đảng viên cộng sản, nhưng tình cảm thường
nghiêng về địa chủ, không hiểu thấu nỗi khổ của
bần cố nông, thậm chí còn coi địa chủ là tốt, là có
công vì đã nuôi nông dân và thậm chí có đóng góp cho
kháng chiến. Cho nên chúng tôi đặt vấn đề :
ai nuôi ai ? ai thống trị ai ? ai bóc lột ai ?
Tư tưởng này nếu nằm ở trong đầu óc của cán bộ
lãnh đạo thì rất nguy hiểm. Cho nên theo chúng tôi, ý
kiến sơ bộ là : phải kiên quyết chống tư tưởng
địa chủ, bóc trần bộ mặt thật của địa chủ, phát
động đảng viên và quần chúng đấu tranh, đánh gục
chúng về mặt tư tưởng, tịch thu ruộng đất của chúng
mà chia cho bần cố nông. Có như vậy mới tăng thêm
tinh thần và lực lượng để đánh bọn xâm lược Pháp.”
[Tố Hữu : sđd ; tt 267-268]
Tuân
theo chỉ giáo của các cố vấn Tàu, năm 1952 ĐLĐ mở
cuộc chỉnh huấn để giáo dục và uốn nắn tư tướng
cán bộ đảng viên qua học tập, phê bình và tự phê
bình. Tố Hữu, Trưởng ban tuyên truyền và thành viên ban
lãnh đạo chỉnh huấn, kể lại :
“ Lúc bấy giờ các lớp chỉnh huấn đều cùng một cách trang trí rất lạ...: ở phòng nào trên tường cũng căng vải đen với chữ nền trắng : “ Nâng cao lập trường giai cấp vô sản, quét sạch tư tưởng địa chủ, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn ”…
Trong
các lớp chỉnh huấn có một không khí không bình thường
là mặt ai cũng có vẻ đăm chiêu, thậm chí lo sợ khi
nghe nói phải kiểm điểm “ thành khẩn ”,
không được giấu diếm ý nghĩ và hành vi của mình.
Không như thế thì không xứng đáng là đảng viên.
Tóm
lại, ai cũng phải nhận ít nhiều mình có tư tưởng địa
chủ hoặc ảnh hưởng tư tưởng tư sản thì cuộc kiểm
điểm mới gọi là “ thành khẩn ” và
mới được thông qua.” [Tố Hữu : sđd ; tr.
272]
Trần
Đĩnh nhận xét về chỉnh huấn :
“ Mục đích sâu xa là xây dựng lập trường giai cấp, đề cao công nhân, bần cố nông, hạ uy thế chính trị và tư tưởng của trí thức và các giai tầng không lao động chân tay khác. Sau đó, bắt đầu triệt để chỉnh đốn tổ chức, theo phương châm mạnh mẽ đề bạt công nông, gạt bỏ các thành phần “ không trong sạch.” …
Tố
Hữu yêu cầu học viên rất ngặt. Hễ là con em hay liên
quan với địa chủ, học viên đều phải thành khẩn tự
khai báo với đảng mọi sai lầm tội lỗi của bản thân,
chẳng hạn đồng tình, về hùa với gia đình, thậm chí
cùng với gia đình trực tiếp đàn áp, bóc lột nông
dân... Thứ hai, phải vạch ra mọi thủ đoạn đàn áp,
bóc lột nông dân cùng tộí ác của bố mẹ, gia đình,
họ hàng địa chủ, cường hào gian ác. Thứ ba trên cơ
sở thành khẩn khai báo kia mà tuyên bố là căm thù
bố mẹ, tỏ ra đã dứt khoát lập trường vô sản, đoạn
tuyệt với kẻ thù giai cấp. Không đạt yêu cầu căm thù
bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm
thảo bị “ phá sản ”, học viên
đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập trường vô
sản, lập trường nông dân thắng, anh ta công khai tuyên
bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ mình.”
[Trần Đĩnh : sđd ; tr. 70, 73-74]
Thực hiện cải cách ruộng đất
Cuộc
chỉnh huấn đã “ tẩy uế ” hàng ngũ ĐLĐ để
chuẩn bị cho việc thực hiện chương trình cải cách
ruộng đất.
Ban
chỉ đạo CCRĐ được chỉ định :
Trưởng
ban chỉ đạo : Trường Chinh (Tổng Bí thư
đảng)
Trưởng
ban chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên : Hoàng
Quốc Việt (Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương đảng)
Trưởng
ban chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh : Lê Văn Lương (Uỷ viên dự khuyết Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Giám
đốc trực tiếp điều hành chiến dịch : Hồ
Viết Thắng (Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung
ương đảng)
Ngày
4/5/1953 Bộ Chính trị ĐLĐ ra chỉ thị về mấy vấn đề
đặc biệt trong phát động quần chúng, trong đó có nói
rõ là “ sẽ phải xử tử một số địa
chủ phản động hoặc gian ác...Tỉ số
những tên bị xử tử, về nguyên tắc định
là một phần nghìn so với toàn nhân số vùng tự
do.” Chỉ thị cũng nói thêm là “ không
phải bất cứ xã nào phát động cũng sẽ xử bọn phản
động và gian ác theo tỉ số đó...Có xã xử ba, bốn
người, có xã chỉ xử một người hoặc không xử người
nào... Không phải ta tiếc rẻ không xử những phần tử
đáng tội. Nhưng số người bị xử không nên quá nhiều ;
nếu quá nhiều thì khó giành được sự đồng tình của
công chúng.” Thêm nữa : “ Việc xử
phải nhằm trừng trị những tên phản động đầu sỏ
nhất, có nhiều tội ác nhất, đã can phạm giết
hại nhân dân, phá hoại cách mạng và nhân dân oán ghét
nhất.”
Nếu
căn cứ vào chỉ thị trên thì bà Năm không thể là đối
tượng phải bị xử bắn. Nhưng, theo Wikipedia, những
hành động yêu nước của Nguyễn Thị Năm bị cố vấn
Trung Quốc cho là “ giả dối nhằm chui sâu, leo
cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại ”. Hồ
Chí Minh và ban chỉ đạo CCRĐ đã im lặng vì sợ
gây mâu thuẫn với cố vấn Trung Quốc. [Wikipedia: Nguyễn
Thị Năm]
Nếu
HCM và Ban chỉ đạo CCRĐ có do dự nhưng vẫn tuân theo ý
kiến của cố vấn Tàu thì quả thật là các cố vấn
này đã có vai trò quyết định ngay trong lãnh đạo cao
nhất của ĐLĐVN.
Có
những ý kiến khác nhau về sự dính líu của HCM vào vụ
xử bà Năm. Theo Trần Đĩnh thì “ Cụ Hồ bịt
râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm
suốt ”. Và Trần Đĩnh cũng viết là bài báo
“ Địa chủ ác ghê ” kí tên C.B. là của HCM.
[Trần Đĩnh : sđd; tr. 82, 83]. Bài này đăng trên báo Nhân
Dân 21/7/1953 là để bào chữa cho hành động bất nhân
và tàn ác đối với một người có công với kháng chiến
nhưng không phải là để kích động nông dân đấu tố
bà Năm vì bà đã bị đấu tố trước đó 2 tháng và đã
bị bắn ngày 9/7/1953.
Sáu
tháng sau đợt thí điểm ở Thái Nguyên, đường lối,
chính sách CCRĐ mới được chính thức công bố trong báo
cáo của Tổng bí thư Trường Chinh tại Hội nghị toàn
quốc ĐLĐ tháng 11/1953. Văn bản dài và chi tiết này giải
thích tại sao phải thực hiện CCRĐ trong thời kì kháng
chiến, phải xóa bỏ quyền đế quốc và phong kiến chiếm
hữu ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, và phải
phóng tay phát động quần chúng đế thực hiện CCRĐ.
CCRĐ cũng có mục đích củng cố và tăng cường sự lãnh
đạo của ĐLĐ ở nông thôn.
Báo
cáo khẳng định là vì kháng chiến chủ yếu phải dựa
vào quần chúng mà tuyệt đại đa số là nông dân nên
phải CCRĐ, chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân
và xây dựng ưu thế chính trị ở nông thôn cho nông dân.
Cuộc chiến tranh chống Pháp càng ác liệt thì giai cấp
địa chủ phong kiến càng phản động, câu kết với đế
quốc chống lại kháng chiến. Vì địa chủ phong kiến
phản động là tay sai của thực dân đế quốc nên phải
CCRĐ, đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, trấn áp
bọn phản cách mạng.
Chỉ
nửa tháng sau báo cáo của Trường Chinh, Luật Cải cách
ruộng đất được Quốc hội thông qua ngày 4/12/1953, chủ
yếu lập lại những điểm chính của bản báo cáo.
Các
đợt cải cách từ 1954 đến 1956 ở miền Bắc vĩ tuyến
17 bao gồm gần 3000 xã trong 18 tỉnh từ Thái Nguyên đến
Vĩnh Linh.
Những
đội cải cách đã tác oai tác quái ở nông thôn, phóng
tay phát động bần cố nông. Phóng tay có nghĩa là không
kiềm chế, không hạn chế. Ngay Tố Hữu cũng phải thừa
nhận :
“ Không
thể kể hết những cảnh tượng bi thảm mà những người
bị qui oan là địa chủ, ác bá (thực tế là trung nông)
phải chịu đựng ở những nơi được “ phát
động ”. ” [Tố Hữu : sđd ; tr.
277-278]
Trần
Huy Liệu, phụ trách kiểm tra trong đoàn chỉ đạo công
tác ruộng đất tại Việt Bắc năm 1953, đã viết sau khi
dự một buổi đấu tố ở thí điểm Thái Nguyên :
“ Đến
lượt địa chủ vào. Hai tay bị trói quặt ra sau, nhưng
vẫn phải bò từ ngoài vào, đeo bên mình những gói quần
áo. Ngoài tiếng hô đả đảo, những người ngồi gần
lối y vào cũng với tay ra đánh tát tơi bời. Không đợi
để quỳ lên bục, một người đã túm lấy tóc mà “tố”.
Trận vũ bão bắt đầu…
Sau
khi chủ tịch đoàn đọc bản cáo trạng, mình phải lấy
làm ngạc nhiên là cuộc tố đã không nêu ra được tội
trạng của B. Chẳng những thế, người ta bắt tội nhân
phải quỳ trên sàn gỗ tính ra từ 11 giờ đến 4 giở
rưỡi chiều. Mỗi khi tội nhân run rẩy gục xuống thì
những tiếng thét từ xung quanh lại vang lên : “ Quỳ
cao lên ! ”. Anh du kích đứng sau lưng thỉnh
thoảng lại dọi một báng súng mỗi khi thấy phạm nhân
quỳ thấp xuống, nghĩa là đặt đít vào hai gót chân…
Ngoài hình phạt bắt quỳ thường xuyên, người ta đã
đánh đập tội nhân rất tàn nhẫn. Mỗi người ra tố,
theo thói quen và bắt chước lẫn nhau, đều nắm tóc tội
nhân để giật hỏi. Sau mấy câu hỏi không đi đến đâu,
người tố thấy mình trơ trẽn nên phải kết thúc bằng
một cái tát để xuống đài… Trước mắt mình đã
có một ấn tượng rất xấu : một anh, cứ cách năm,
mười phút lại lên nắm tóc tội nhân hay xen vào cuộc
đấu tố của người khác để hỏi một vài câu trống
rỗng, rồi theo đó một cái tát. Mình không thể thấy
được ở y một căm thù giai cấp mà chỉ thấy ở y một
hèn nhát của một kẻ đánh hôi trong trận đòn hội chợ.
Mình còn thấy ở y, cũng như một số khác trong khi đánh
đập tội nhân còn có ý biểu dương tinh thần trước
mặt cán bộ. Cũng hôm nay, mình còn thấy hai đứa trẻ
con trong đám quần chúng cốt cán cũng luôn chạy ra bắt
địa chủ phải quỳ cao và túm tóc đánh tát theo kiểu
này. Họ hiểu lầm hai chữ “ đấu lực ”
bằng cách dùng nhục hình vô nhân đạo. Họ không biết
sức mạnh của giai cấp không phải đánh hôi một cách
hèn nhát, có tính chất báo thù cá nhân.” [Trần
Chiến :Trần Huy Liệu - Cõi người.
HN : Nxb Kim Đồng, 2009 ; chương 20]
Nguyễn
Đăng Mạnh, thành viên một đội cải cách năm 1955, viết
trong hồi ký :
“ Cải
cách ruộng đất đúng là một sai lầm nghiêm trọng. Bắt
oan, giết oan hàng vạn người. Mà thật ngu xuẩn. Làm sao
địa chủ lại nhiều thế : 5 % ! Làm sao mà
Quốc dân đảng lại có ở khắp mọi nơi. Đúng là rập
khuôn theo Trung Quốc một cách cực kỳ ngu xuẩn. Quốc
dân đảng là đảng chính thống, đảng cầm quyền ở
Trung Quốc hàng bao nhiêu năm mới có lắm quốc dân đảng
như thế chứ. Thực ra trước khi sửa sai, chúng tôi cũng
có ngờ ngợ thế nào ấy. Bởi vì thấy nhiều địa chủ
chẳng giầu có gì lắm. Và họ cũng lao động ra trò,
cũng biết đi cày đi cấy. Con cái hiền lành, ngoan ngoãn.
Tôi từng được giao triệu tập con cái địa chủ lại
để giáo dục, tôi thấy như thế. Bây giờ sửa sai, thấy
sai lầm của cải cách ruộng đất là chuyện dĩ nhiên và
rất dễ hiểu. Nhưng chỉ không hiểu sao thời ấy cả
nước từ trên xuống dưới lại ngu xuẩn đến thế, sai
từ đường lối chính sách đến các biện pháp cụ thể.
Phát động quần chúng, mà quần chúng sợ đội quá sợ
cọp, làm sao dám nói trái ý đội. Tôi lúc đó chỉ là
một thằng thanh niên ngoài hai mươi tuổi, vậy mà đi lại
trong làng, có những cụ già râu dài, chắp tay vái “ lạy
đội ạ ! ”. Một chính sách lớn như thế,
liên quan đến sinh mạng hàng vạn dân mà giao phó cho
những cốt cán dốt nát thực hiện. Cán bộ đội cũng
thế, trong đội tôi có một anh tên là Khả mù chữ. Mù
chữ mà giảng chính sách và vận dụng chính sách – một
chính sách rất lớn và rất phức tạp – vào việc bắt
người, bắn người, tịch< thu tài sản của người !
Cải cách ruộng đất đúng là một trường hợp điển
hình thô bỉ nhất của vụ cưỡng hiếp của Tầu đối
với Việt Nam về chính trị và văn hoá.” [Nguyễn
Đăng Mạnh : Hồi ký. HN, 2008 ; tr. 41-42]Sửa sai
Cuộc
cải cách ruộng đất đã gây chấn động lớn trong xã
hội miền Bắc, ảnh hưởng tới uy tín của chính phủ
HCM, rất bất lợi trong những năm đầu đất nước VN
chia đôi. Cấp lãnh đạo ĐLĐ buộc phải chấp nhận sai
lầm và phải tiến hành sửa sai.
Báo
cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương ĐLĐ
lần thứ 10, tháng 10-1956 đã xác nhận : “ Tư
tưởng thành phần chủ nghĩa trong cải cách ruộng đất
có tư tưởng nông dân, đặt bần cố nông lên trên tất
cả, thậm chí đặt bần cố nông lên trên Đảng… Tư
tưởng tả khuynh trong cải cách ruộng đất đã chớm nở
lúc đầu ; nó đã đưa đến chỗ học tập kinh
nghiệm nước bạn một cách máy móc và không chịu điều
tra nghiên cứu đầy đủ tình hình xã hội ta để định
chủ trương chính sách cụ thể cho thích hợp… Trong lúc
thi hành thì một mực nhấn mạnh chống hữu khuynh trong
khi những hiện tượng tả khuynh đã trở nên trầm trọng…
từ khu trở xuống thì hệ thống cải cách ruộng đất
trở nên một hệ thống ở trên cả Đảng và chính
quyền. Tác phong độc đoán chuyên quyền, do đó mà trở
nên phổ biến, không đi theo đường lối quần chúng, mà
thực tế đã trấn áp quần chúng, nhẹ tuyên truyền giáo
dục, buộc quần chúng làm những điều trái với ý muốn,
với lương tâm của họ, có khi trái với chân lý và
chính nghĩa.” [Wikipedia: Cải cách ruộng đất tại
miền Bắc Việt Nam]
Đây
là lần đầu tiên ĐLĐ thú nhận về ảnh hưởng tai hại
của cố vấn Tàu. Đúng là “ nghe bợm mất bò /
nghe bạn mất vợ nằm co một mình ” !
Các
bước sửa sai được tiến hành :
Ngày
18 tháng 8 năm 1956, HCM gửi thư cho đồng bào và cán bộ
nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính
phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
Tháng
9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương
đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên
nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật
đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất
như sau : ông Trường Chinh phải từ chức
Tổng Bí thư đảng, nhưng vẫn là Uỷ viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng, ông Hoàng Quốc Việt ra
khỏi Bộ Chính trị, xuống Uỷ viên Trung ương và Lê
Văn Lương ra khỏi Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị
và Bí thư Trung ương Đảng xuống Uỷ viên dự khuyết
TW, và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày
29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
người không tham gia trực tiếp vào sai lầm chương trình
Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc
bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành
Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai
sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi
các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu
tố. [Wikipedia: Cải cách ruộng đất tại miền Bắc
Việt Nam]
Võ
Nguyên Giáp được cử ra trước công chúng thay mặt ĐLĐ
và chính phủ vì ông mang hào quang chiến thắng Điện
Biên và không trực tiếp liên can đến cuộc CCRĐ.
Ngày 30
tháng 10 năm 1956, GS Nguyễn Mạnh Tường đọc
một bài diễn văn nẩy lửa tại Hội nghị Mặt trận Tổ
Quốc, phê phán và truy nguyên các sai lầm trong CCRĐ, từ
đó chỉ ra những thiếu sót của ĐLĐ và góp ý kiến xây
dựng quan điểm lãnh đạo của đảng:
“ Khi
trong Cải cách Ruộng đất của ta, ta thấy bao nhiêu người
bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân
ưu tú đã từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách
mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị
đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được
đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định
rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách Ruộng
đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các
sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên… một
vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo của
Đảng Lao Động…
Về
nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất.
…Nông
dân ta trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ
bóc lột phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ
bóc lột thực dân. Đồng bào nông thôn ta lầm than như
vậy, đã mất hết khí thế con người. Ta cần khôi phục
khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần
chủ nhân ông trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết
phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được
phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng dậy nắm lấy
quyền thế ở nông thôn.
Nhưng
từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm
này, ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ : ta
quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền
ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách
sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh
được bao tai hoạ làm ta đau khổ hiện thời.
…Ta
muốn gì ? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng
để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa,
nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của cách mạng,
muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách
mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu
“ thà
chết 10 người oan còn hơn để sót một địch ”
thì
khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà
phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng
minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế : kết quả
sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất
tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao
nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản
lại cách mạng thì là gì ?
Khẩu
hiệu của pháp lý thì khác hẳn :
“ Thà
10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan ”.
Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không ? Không,
vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công.
Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm,
nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào
lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ : không
một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết
quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm
thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy ? Kinh
nghiệm pháp lý của hàng nghìn năm lịch sử thế giới
cho ta biết rằng ta có phương pháp để tìm đúng địch
mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội.”
Nguyễn
Mạnh Tường chỉ ra các nguyên nhân sai lầm chính của
lãnh đạo :
Quan
điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ : “ Còn gì
đau đớn hơn là câu ta được nghe “ ta đánh
cả ta nữa ”. Nếu như vậy thì ta cần phải
nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc
lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các
đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chí ấy nói,
hoặc không nói, nhưng ta đều hiểu các đồng chí ấy
nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không phân
biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn,
giết cả bạn.
Tôi
thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở
đâu ? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá
cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường
mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng ? Đây
không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc
điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên
nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ.”
Bất
chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý :
“ Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn
cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì
chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện
thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và
tự mãn ấy, các nhà chính trị đã bị thúc đẩy bởi
những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý
là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng,
trái lại, chính pháp lý giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai
nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên
pháp luật… Pháp luật chủ yếu đề ra những cái
gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do
đó nhân dân vững tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm
hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng
biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó
buộc nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ gò bó
quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền thì nhà cầm
quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần
chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái
gì hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của
nhà cầm quyền có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy
lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái
độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến
tương lai, mà là ảnh hưởng cả về quá khứ nữa.”
Bất
chấp chuyên môn : “ Các nhà chính trị bất chấp
pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của
các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt
ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà
chính trị nên chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật
phục vụ cách mạng.
Nhưng
tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng
quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi
hai chữ “ lập trường ” làm ta mất
ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “ duy
tâm ”, tôi ví lập trường như cái oan hồn
ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của
nó. Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị
lãnh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh
hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và đảng viên
tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường.
Vì vậy, để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập
trường rồi. Đó là tinh thần tự ti của một giai cấp
mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách
mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những
sự việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta
cười muôn thuở : khi chọn một người vặn lái ô
tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn
lái bao năm, ta chỉ hỏi : “ Có lập trường
không ? ” Kết quả là từ hai năm nay,
riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do
các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm
chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp
cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là :
Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào ? Chữa cho
địa chủ thì “ mất lập trường ”.
Để nó chết mới chứng minh mình có “ lập
trường giai cấp ” (hiện tượng do B.S. Nguyễn
Xuân Nguyên đưa ra).
Tại
sao có những hiện tượng quái gở như vậy ? Là vì
chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận
thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo
tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các
chân lý.” [nguyen-manh-tuong: sđd]
Sau
cùng ông đề nghị phương hướng sửa chữa các sai lầm,
chủ yếu là phải xây dựng một chế độ pháp trị chân
chính và một chế độ dân chủ thật sự :
“ Đảng
Lao Động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong
chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải
“ tăng cường chế độ pháp trị ”
của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận
thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ.
Chính trị vẫn coi pháp luật như một “ bà
con nghèo ”. Chữ “ tăng cường ”
là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ
Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ
pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ
nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi trình bày ý kiến về
chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính.
Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà
là xây dựng.”
“ Thế
nào là một chế độ thực sự dân chủ ? Đó là một
chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất
nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế
nữa… trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đòi
hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có một điều
thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được
đề đạt lên cấp lãnh đạo, ý kiến về các chính sách
do cấp lãnh đạo xây dựng…yêu cầu thiết tha nhất
hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý
nguyện của mình. Theo ý tôi, để thực hiện và đảm
bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba giải
pháp.
Một
chế độ báo cáo của cán bộ... Phải đặt các cán bộ
có nhiệm vụ báo cáo trước trách nhiệm của họ. Một
báo cáo không phản ảnh trung thành sự thực với các
khía cạnh của nó, với các ưu và khuyết điểm của nó,
rất tai hại. Cấp lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với
các con số thống kê, các động cơ bất chính của cán
bộ muốn thi đua thành tích, vừa mị dưới, vừa lừa
trên, do đó đưa ra một hình ảnh quá hẹp của thực tế.
Một
chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh
dạn nói lên ý kiến của quần chúng mà họ tập hợp.
Từ trước tới nay, ta có thể ví Đảng Lao Động như
một cây rất to, lá ruờm rà che hết ánh sáng của mặt
trời, khiến ngay một ngọn cỏ cũng không mọc dưới
chân nó được. Vì vậy, Quốc hội cũng như Mặt trận
không thể đóng được vai trò của mình… Từ khi thành
lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ quốc,
chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành
chính sách mà thôi. Đó là một nhiệm vụ. Nhưng dù sao
chỉ có một chiều. Ta là dây liên lạc giữa các cấp
lãnh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền
liên lạc giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa là
phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ý kiến thắc mắc,
nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào
cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ta gắn liền lãnh đạo
và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế
hơn.
Một
chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí — Ta phải
đề phòng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các Uỷ
viên Mặt trận không phản ảnh ý kiến của quần chúng.
Do đó, ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng nói
lên tiếng nói của mình qua báo chí. Có người lo ngại
rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng thấy cần thiết có
thể bị sử dụng một cách bừa bãi. Về điều này ta
phải suy nghĩ. Mối lo ngại trên đây xuất phát từ động
cơ nào ? Nếu là động cơ tốt — nghĩa là do một nhiệt
tình đối với cách mạng gây ra — ta hoan nghênh. Nhưng
ta cũng sẽ trả lời rằng trong một chính thể dân chủ
muốn sử dụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm
của người sử dụng tự do ấy trước pháp luật. Nếu
sử dụng với tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không
có quyền kêu ca gì, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm
dụng một cách vô trách nhiệm, ta đã có tòa án để
nghiêm trị. Vậy ta không lo ngại. Nhưng nếu mối lo ngại
xuất phát từ một động cơ bất chính, nhắm mục đích
thủ tiêu các tự do dân chủ, thì tôi chỉ cần khuyên
nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các
phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay. Họ sẽ
nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản
được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự
do dân chủ.” [nguyen-manh-tuong: sđd]
Vì
bài này, ông bị sa thải khỏi đại học và không được
hành nghề luật sư nữa.
Kết luận
Tuy
mục đích của CCRĐ được rêu rao là “ người
cày có ruộng ”, chỉ 2 năm sau ĐLĐ chủ trương
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp bằng
hình thức hợp tác xã. Ruộng đất tập thể hoá được
đặt dưới sự quản lý và sử dụng của ban quản trị
hợp tác xã, chủ yếu được chọn từ những thành phần
bần cố nông. Nông dân đã mất quyền làm chủ sử dụng
ruộng đất. Tập thể hoá biến nông dân từ người làm
chủ ruộng đất trở thành người làm công cho ban quản
trị hợp tác xã. Kể từ Hiến pháp 1980 đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở
hữu. Người dân có thể được cấp quyền sử dụng
đất. Những năm gần đây phong trào dân oan đã nổi lên
ở nhiều nơi phản đối những vụ cưỡng chế thu hồi
đất.
Gần
60 năm sau, những ý kiến và đề xuất của GS Nguyễn
Mạnh Tường vẫn còn nguyên giá trị. Đảng CSVN vẫn
thấy xung quanh là những thế lực thù địch, là sự đe
doạ của diễn biến hòa bình, vẫn bất chấp pháp luật,
lấy chính trị lấn át pháp lý. Nước VN vẫn chưa có
một chế độ pháp trị chân chính và một chế độ dân
chủ thật sự.
Nguyễn
Điền
No comments:
Post a Comment