Gilbert
Rozman
Tháng
11 14, 2014
Gần
đây, Trung Quốc và Nga đã thách thức trật tự quốc tế
bằng cách hậu thuẫn lẫn nhau trên mặt trận ngoại giao
để đối phó vấn đề Ukraine và Hồng Kông, theo thứ tự
tương ứng. Nhưng các quan sát viên phương Tây gần như
đã hiểu lầm những lý do khiến hai nước phải xây dựng
các quan hệ thân thiết với nhau hơn trước. Nga và Trung
Quốc được thúc đẩy bởi các lợi ích vật chất mà
hai nước chia sẻ thì ít, nhưng bởi một ý thức thông
thường về cái căn cước dân tộc [national identity] thì
nhiều. Cái bản sắc dân tộc này tự định hình trong
cuộc đối kháng chống phương Tây và trong việc củng cố
cách nhìn của mỗi nước về di sản của chủ nghĩa cộng
sản truyền thống. Moscow và Bắc Kinh có những bất đồng
về trật tự tương lai mà họ dự phóng cho khu vực riêng
của mình. Nhưng cả hai đều nhất trí rằng trật tự
địa chính trị phương Đông chắc chắn xung khắc với
trật tự địa chính trị phương Tây – và chính điều
này đã dẫn hai nước đến những quan hệ song phương
gần gũi hơn trước một cách đáng kể.
Một
số quan sát viên phương Tây đã nhấn mạnh quá đáng về
các căng thẳng Trung-Xô trong thời Chiến tranh Lạnh, đồng
thời tranh luận rằng quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow có
thể vẫn còn thiếu bền vững vì những chuyển biến đã
diễn ra bên trong hai nước từ thập niên 1990, kể cả
tiến trình dân chủ hóa tại Nga, toàn cầu hóa tại Trung
Quốc, và sự trỗi dậy nhanh chóng của một giai cấp
trung lưu có khả năng tiếp cận thông tin bên ngoài tại
cả hai nước. Về việc Trung Quốc và Nga xây dựng các
quan hệ mới, các quan sát viên này tin rằng tình hữu
nghị Nga-Hoa chỉ là một cuộc hôn nhân hờ [a marriage of
convenience] sẽ bị các lợi ích quốc gia khác gạt qua một
bên, trong đó phải kể đến các quan hệ hữu hảo với
phương Tây.
Nhưng
hầu hết người phương Tây không hiểu được rằng, kể
từ những năm 1990, các quan chức Trung Quốc và Nga đã
bắt đầu hối tiếc về những căng thẳng giữa hai nước
trong thời Chiến tranh Lạnh. Họ hiểu rằng vấn đề
tranh chấp được gây ra do thiếu sự trùng hợp lợi ích
quốc gia thì ít, mà do bản sắc dân tộc thì nhiều –
cái bản sắc dân tộc đã bị méo mó bởi các đòi hỏi
ý thức hệ về quyền lãnh đạo thế giới cộng sản.
Moscow phạm phải sai lầm nghiêm trọng khi chờ đợi Bắc
Kinh cam chịu quyền lãnh đạo của mình, chấp nhận vai
trò của một đối tác đàn em. Lãnh đạo Trung Quốc
không chấp nhận vai trò đó, vì điều ám ảnh duy nhất
của họ là tính ưu việt của ý thức hệ Cộng sản
Trung Quốc.
Các
nhà làm chính sách của hai nước cương quyết không lặp
lại các vấn nạn này. Mặc dù Trung Quốc đang ở trong
vị thế là một đối tác nổi bật trong mối quan hệ
này, nhưng họ đã tỏ ra tự chế. Các lãnh đạo tại
Moscow và Bắc Kinh tránh để cho chủ nghĩa dân tộc bá
quyền nước lớn [chauvinistic nationalism] lấn át lợi ích
quốc gia của nhau trong một nỗ lực chung nhằm giảm
thiểu ảnh hưởng của phương Tây trong khu vực của mỗi
nước.
Vì
mục đích đó, chính phủ của hai nước chủ ý tập
trung vào những chính sách đối ngoại nhắm tới việc
triệt hạ chính nghĩa của phương Tây [Western legitimacy],
đồng thời thận trọng không đưa ra những bình luận
phê phán các tham vọng của nhau trong chính sách đối
ngoại. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã mô tả
cái gọi là Giấc mộng Trung Hoa [China Dream] về một trật
tự địa chính trị mới tại châu Á do các chính phủ
trong khu vực tạo dựng nên – trong đó Bắc Kinh đóng
một vai trò khống chế. Trong một cung cách tương tự,
Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rõ mục đích của mình
là tạo ra một Liên minh Á Âu, trong đó các quan hệ giữa
các quốc gia Xô-viết trước đây là do Moscow định đoạt.
Nga và Trung Quốc cáo buộc Mỹ đang thể hiện một não
trạng hiếu chiến của thời Chiến tranh Lạnh bằng cách
ra sức ngăn chặn tham vọng chính đáng của hai nước
trong các khu vực ảnh hưởng của họ.
Ít
ra có đến sáu lý do để tin rằng quan hệ đối tác ngầm
này giữa Nga và Trung Quốc là bền vững. Một, Putin và
Tập đã và đang dựa vào các ý thức hệ rất giống
nhau để biện minh cho chế độ của mình. Cả hai đều
nhấn mạnh niềm tự hào về thời đại xã hội chủ
nghĩa, chủ nghĩa dĩ Hoa vi trung [Sinocentrism] hay chủ nghĩa
dĩ Nga vi trung [Russocentrism] vốn đang tìm cách nới rộng
trật tự chính trị trong nước ra bên ngoài, và chủ
nghĩa chống bá quyền [anti-hegemonism]. Mặc dù chủ nghĩa
dân tộc Nga có một tố chất bài ngoại [a strain of
xenophobia] trong đó, từng tiếp sức cho lối tuyên truyền
mị dân chống Trung Quốc trong những năm 1990, nhưng Putin
đã hạn chế tối đa khía cạnh dân tộc chủ nghĩa này
và tránh trực tiêp nhắc đến sự trỗi dậy của Trung
Quốc. Ý hệ dĩ Hoa vi trung [Sinocentrist ideology] có xu thế
tương tự là nuôi dưỡng các căng thẳng với Nga –
trong đó có việc thách thức các đòi hỏi chủ quyền
của Nga tại Trung Á gồm lãnh thổ trước đây đã thuộc
về Liên Xô. Nhưng các lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc
đã cho thấy, trong các hội nghị và diễn đàn quốc tế,
kể cả tại Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, rằng họ
sẵn sàng bày tỏ sự tôn trọng [vùng] ảnh hưởng chính
trị và văn hóa của Nga.
Hai,
Trung Quốc và Nga đang tìm cách nêu bật những dị biệt
lịch sử với phương Tây và nhấn mạnh chiến tuyến
giữa họ với Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh. Sách báo
bị nhà nước kiểm duyệt tại hai nước ít khi nhắc đến
cuộc tranh chấp Trung-Xô trong Chiến tranh Lạnh. Mặc dù
trước đây một số sử gia Trung Quốc đã nhìn nhận
rằng Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ là do Bắc Triều
Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên, nhưng các sách giáo khoa mới
nhất đồng loạt đổ lỗi cho Mỹ đã gây ra chiến
tranh. Trong xu thế này, các nhà làm chính sách và các học
giả trong cả hai nước gia tăng lập luận rằng phương
Tây không bao giờ thay đổi não trạng đế quốc thời
Chiến tranh Lạnh của mình. (Họ đưa ra bằng chứng bằng
cách cáo buộc phương Tây đã hậu thuẫn cho cái gọi là
các cuộc cách mạng màu tại Ukraine và Hồng Kông.) Luận
điệu này ngụ ý là Trung Quốc và Nga vẫn phải tiếp
tục chống lại ảnh hưởng của phương Tây và đóng góp
cho việc kiến tạo một trật tự quốc tế mới.
Ba,
cả hai nước đều lập luận rằng cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2008 chứng tỏ rằng mô hình chính
trị và kinh tế của phương Tây đang ở trên bờ thất
bại và là kém ưu việt hơn các mô hình phát triển của
họ (phần sau của tranh luận này có sức thuyết phục
tại Trung Quốc nhiều hơn tại Nga.) Các lãnh đạo tại
Bắc Kinh và Moscow đều không cho phép xã hội dân sự có
điều kiện tạo ra một nguy cơ nào cho chế độ của
mình, vì thế trong năm 2014 này đã ra tay đàn áp thô bạo
hơn bất cứ thời điểm nào kể từ đầu thập niên
1990.
Bốn,
cả Putin lẫn Tập đều nhấn mạnh tầm quan trọng của
các quan hệ song phương Nga-Hoa trong việc đối đầu với
các mối đe dọa từ ngoài vào. Đây là một hệ luận [a
corollary] của việc hai chính phủ đều nhấn mạnh vai trò
quan trọng của chủ nghĩa cộng sản, dù đó là một ý
thức hệ đang thống trị (tại Trung Quốc) hay như một
di sản lịch sử tích cực (tại Nga). Điều này làm hai
nước không còn bao nhiêu đồng minh ý thức hệ ngoài
việc chỉ còn có nhau [các đồng minh ý thức hệ khác là
Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn – TNC] – và ta không có lý do
để tin rằng điều này sẽ thay đổi trong một tương
lai có thể thấy trước.
Năm,
Nga và Trung Quốc đã thể hiện thành công một nỗ lực
là đứng cùng một phe trong các tranh chấp quốc tế. Để
khỏi xung đột công khai về các vấn đề khu vực, như
các chính sách chủ quyền lãnh thổ và năng lượng của
Việt Nam, cả Trung Quốc lẫn Nga đều ngăn cấm việc
bàn luận công khai các bất đồng quan điểm giữa hai
nước, nhờ vậy giảm thiểu sức ép của dân chúng tại
nước này đòi hỏi chính phủ phải lên tiếng phản đối
nước kia. Đồng thời mỗi nước đều vác loa rêu rao
mối đe dọa của Mỹ và đồng minh của Mỹ trong bất cứ
tranh chấp nào liên quan tới một trong hai nước. Chiến
dịch này có hiệu quả đến nỗi trong năm nay đôi khi
khó phân biệt giữa sách báo Nga và sách báo Trung Quốc
viết về cuộc khủng hoảng tại Ukraine hay các cuộc biểu
tình tại Hồng Kông.
Sáu,
hiện có những chiến dịch mà chính phủ hai nước đang
tiến hành để đề cao bản sắc dân tộc. Putin và Tập
đã vận dụng mọi nguồn lực có sẵn trong tay, kể cả
chế độ kiểm duyệt gắt gao và cuộc tranh luận sôi nổi
từ trên xuống dưới, để động viên cả nước hậu
thuẫn một cuộc tuyên truyền chính trị inh ỏi nhằm
biện minh cho các cuộc đàn áp ở trong và ngoài nước.
Những kêu gọi này đã có hiệu quả vì chúng dựa vào
những nỗi bất bình do lịch sử để lại và sử dụng
luận điệu bá quyền nước lớn rất quen thuộc. Kết
quả là, chủ nghĩa dân tộc đã trỗi dậy mạnh mẽ nhất
tại hai nước kể từ điểm cao của Chiến tranh Lạnh.
Luận
điệu của Trung Quốc trong việc hậu thuẫn các hành động
của Putin tại Ukraine và luận điệu của Nga tán thành
quan điểm của Tập về các vấn đề Đông Á không phải
là một trùng hợp ngẫu nhiên. Nói đúng ra, đó là một
đặc điểm của một trật tự địa chính trị mới thời
hậu Chiến tranh Lạnh. Chừng nào những nhà lãnh đạo
chính trị chóp bu hiện nay tại Trung Quốc và Nga còn nắm
giữ quyền lực, thì không có lý do gì để kỳ vọng một
thay đổi lớn hoặc trong bản sắc dân tộc của hai nước
hoặc trong quan hệ Nga-Hoa. Những nước hi vọng tạo ra sự
chia rẽ giữa hai quốc gia – trong đó có Nhật Bản dưới
Chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe – chắc chắn sẽ thất
vọng. Nói cách khác, không phải là chuyện ngẫu nhiên
khi Mỹ không giành được hậu thuẫn của Trung Quốc
trong nỗ lực chống chủ nghĩa bành trướng Nga tại
Ukraine. Dù vấn đề là Bắc Triều Tiên, Iran, hay một
thách thức nào khác đối với phương Tây, ta nên sẵn
sàng chứng kiến có thêm nhiều cuộc đọ sức từ phía
Nga-Hoa, chứ không hề giảm bớt.
.
-------------------
.
GILBERT
ROZMAN là Phó Giảng viên tại Phân khoa Nghiên cứu Đông Á
của Đại học Princeton. Sách mới nhất của ông là The
Sino-Russian Challenge to the World Order
(Thách thức Nga-Hoa đối với Trật tự Thế giới).
.
Nguồn:
“Asia
for the Asians. Why Chinese-Russian Friendship Is Here To Stay”,
Foreign
Affairs
29/10/2014
.
Bản
tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
No comments:
Post a Comment