Dương
Danh Huy
11/06/2014
Tường thuật của ngư dân và clip về việc tàu cá Việt
Nam bị tàu Trung Quốc bao vây, đuổi và đâm chìm làm tôi nhớ lại một chuyện thời
sinh viên. Hôm đó, tôi thấy trong một thư viện của đại học một quyển sách với một
chuỗi hình chụp từ máy bay. Những hình này chụp lại cảnh một chiếc thuyền của
người Việt tỵ nạn trong thập niên 1980 bị nhiều thuyền hải tặc bao vây. Thuyền
hải tặc dùng bạt che số hiệu và đâm húc cho đến khi chiếc thuyền xấu số chìm.
Không biết bao nhiêu sinh mạng đã bị dập tắt trong lòng biển. Lần này may mắn
là các nạn nhân được cứu.
Từ năm 2009, Trung Quốc đã đâm húc tàu thuyền ngư
dân Việt Nam, bắn họ, đánh đập họ, bắt họ, đòi tiền chuộc, cướp phá hoại tài sản
của họ biết bao nhiêu lần. Hoàng Sa thì từ khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường
hóa quan hệ ngoại giao, họ khăng khăng là không có tranh chấp, không có gì để
đàm phán. Trong cuộc đối đầu về giàn khoan Hải Dương 981, họ đã đâm hư hại 24
tàu của cơ quan nhà nước Việt Nam, coi nhà nước Việt Nam không ra gì.
Với thực tế đó, còn có gì để nấn ná với khái niệm
“kiên trì đàm phán” nữa? Chắc chắn là Trung Quốc sẽ không nhượng bộ gì về chủ
quyền đối với các đảo. Về vùng đặc quyền kinh tế có thể có chung quanh các đảo
nói chung và vấn đề giàn khoan Hải Dương 981 nói riêng, nếu Trung Quốc có nhượng
bộ, chắc chắn là họ sẽ ra giá. Giá đó có thể là công nhận “chủ quyền Trung Quốc”
trên quần đảo và trong vùng nội thủy và lãnh hải mà họ tuyên bố, hay là để cho
họ cùng khai thác trong vùng Tư Chính - Nam Côn Sơn. Thậm chí, cũng có thể một
trong những mục đích chính của Trung Quốc trong việc triển khai giàn khoan Hải
Dương 981 là để gây áp lực buộc Việt Nam cho họ cùng khai thác trong vùng Tư
Chính - Nam Côn Sơn.
Như vậy, thực chất của biện pháp “kiên trì đàm phán”
chính là vì “đại cục” mà hy sinh Hoàng Sa, và vùng biển Hoàng Sa có thể có. Biện
pháp thứ nhì, đối đầu trên thực địa, là không thể thiếu được, nhưng là một cuộc
chiến không cân sức cho Việt Nam. Việt Nam phải bổ sung bên cạnh lòng dũng cảm,
sự chịu đựng và hy sinh của cảnh sát biển Việt Nam, kiểm ngư và ngư dân với biện
pháp thứ ba: biện pháp pháp lý.
Ngày 23/5, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật
pháp quốc tế Bộ Ngoại giao Việt Nam trả lời phóng viên Reuters, “Cá nhân tôi là
một luật gia, tôi luôn luôn hỏi mình khi nào là thời điểm để sử dụng biện pháp
pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta phải chờ đợi quyết định của Chính phủ”.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Chính trị sẽ quyết
định “thời điểm nào hợp lý” cho việc kiện.
Tuy không phải là luật gia, tôi cũng tự hỏi, “Bao giờ
Bộ Chính trị Việt Nam mới quyết định xử dụng biện pháp pháp lý, một biện pháp
hòa bình, văn minh, và là biện pháp duy nhất trong đó Việt Nam có thể chiến đấu
một cách bình đẳng với Trung Quốc?”.
Dường như có điều gì đó làm họ chần chừ. Có phải là
họ ngại trả đũa kinh tế từ Trung Quốc chăng?
Ngày xưa, khi trả lời câu hỏi “Hòa hay chiến?”, có lẽ
lãnh đạo và người dân Đại Việt cũng đã nghĩ tới những hệ quả xấu cho nông nghiệp
từ vó ngựa Mông Cổ. Có lẽ họ cũng đã nghĩ đến chiến lược đồng không nhà trống
có thể ảnh hưởng đến kinh tế thế nào. Và họ còn phải nghĩ sẽ sinh bao nhiêu
xương máu trước quân đội thiện chiến nhất thế giới lúc đó. Nhưng câu trả lời của
họ vẫn là câu trả lời mãi có tiếng thơm trong lịch sử. Ngày nay, câu hỏi không
khắc nghiệt bằng “Hòa hay chiến?”, nó là “Kiện hay không kiện?” (Kiện ở đây là
kiện Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS trong sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, không
phải là kiện để đòi lại Hoàng Sa, vì không có tòa nào có thẩm quyền để thụ lý vụ
kiện kiện để đòi lại Hoàng Sa).
Ngày nay, việc ra tòa để giải quyết tranh chấp là một
phương tiện văn minh. Hàng chục nước trên thế giới đã ra tòa để giải quyết
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, trong đó có cả Thái Lan, Campuchia, Mã Lai,
Singapore và Indonesia. Philippines cũng đã phải hỏi câu hỏi “Kiện hay không kiện?”,
và họ đã có một trả lời không bị cột vào nỗi sợ Trung Quốc sẽ trả đũa kinh tế, hay
nỗi sợ nào đó khác.
Phải chăng sau bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước,
sau một trăm năm đánh đuổi ngoại xâm, hai mươi năm “nội chiến từng ngày” hay
“đánh đuổi đế quốc”, v.v., (tùy theo quan điểm của mỗi người), bốn mươi năm xã
hội chủ nghĩa, số phận của Việt Nam ngày nay là bị Phần Lan hóa hơn cả
Philippines? (“Phần Lan hóa” là thành ngữ dựa trên quan điểm sau Thế Chiến 2,
Phần Lan trên thực tế đã phải hy sinh phần nào sự độc lập của mình vì phải tồn
tại bên cạnh Liên Xô).
Quyển “Viêt-Nam: Sociologie d’une Guerre”, của Paul
Mus và quyển “Vietnam: A History” của Stanley Kanow ghi Hồ Chí Minh nói một câu
với ý thà ngửi phân Pháp năm năm còn hơn ngửi phân Tàu ngàn năm (nhưng khó kiểm
chứng sự thật là thế nào). Một trong những điều mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho
là hào quang của mình là vai trò của họ trong phong trào Việt Minh giành độc lập
cho Việt Nam. Họ cũng cho rằng vai trò của họ trong cuộc chiến 1954-1975 là một
hào quang. Nhưng giả sử điều thứ nhì có đúng đi nữa thì hào quang đó cũng có một
bóng tối, đó là khi đối diện với câu hỏi “Có nói Hoàng Sa, Trường Sa là của dân
tộc Việt hay không?” họ đã chọn trả lời sai. Dù trả lời sai đó có không làm cho
Việt Nam mất chủ quyền pháp lý đi nữa, thì đó cũng là một bóng tối về luân lý.
Nhưng, quan trọng hơn, nếu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mà Việt Nam lâm
vào tình huống phải “ngửi phân Trung Quốc ngàn năm” ở Biển Đông thì vị trí của
Đảng Cộng sản trong lịch sử Việt Nam sẽ cực kỳ đen tối, không hào quang nào có
thể soi sáng nổi. Tất nhiên, điều quan trọng hơn tất cả là nếu điều đó xảy ra
thì tương lai của Việt Nam sẽ cực kỳ đen tối.
Hiện nay chưa biết được Việt Nam có sẽ lâm vào tình
huống đó hay không. Một trong những yếu tố có thể định đoạt là lãnh đạo Việt
Nam. Trả lời của Bộ Chính trị cho câu hỏi “Kiện hay không?” sẽ trả lời những
câu hỏi, “Lãnh đạo Việt Nam có dùng tất cả các biện pháp hòa bình không? Có
dùng tất cả những biện pháp cần thiết không? Có dùng tất cả những biện pháp
trong đó Việt Nam có thể đấu tranh một cách bình đẳng không?”. Trả lời cho những
câu hỏi đó sẽ là những chỉ số quan trọng về lãnh đạo Việt Nam đối phó với Trung
Quốc thế nào trong cuộc tranh chấp có tính sống còn cho Việt Nam, có thể giúp
chúng ta dự đoán về tương lai, và có thể giúp Trung Quốc đánh giá về ý chí trên
thực tế của lãnh đạo Việt Nam.
Trung Quốc đã cố ý triển khai giàn khoan Hải Dương
981 ở một địa điểm mà Việt Nam có thể đơn phương kiện. Có thể đó là phép thử của
họ, xem lãnh đạo Việt Nam có dám kiện hay không. Nếu Trung Quốc cho rằng lãnh đạo
Việt Nam sợ trả đủa kinh tế, hay sợ điều gì khác, cho nên không dám kiện, họ sẽ
lấn tới và làm cho tình hình của Việt Nam nguy khốn hơn.
Hiện nay, cảnh sát biển và kiểm ngư đang dũng cảm
thi hành nhiệm vụ của họ, ngư dân Việt Nam đang kiên trì bám biển dưới mũi tàu
sắt Trung Quốc, lòng dân đang bức xúc, nhưng chưa biết Bộ Chính trị sẽ thi hành
nhiệm vụ của họ thế nào.
D.D.H.
Tác giả gửi BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:04
No comments:
Post a Comment