09:25:am 12/10/13
Nước Mỹ đang trải qua cơn bế tắc chính trị khi hai
đảng Cộng Hoà và Dân Chủ không thể thoả hiệp với nhau về ngân sách quốc gia, có
liên quan tới chương trình Bảo hiểm Y tế Giá Phải chăng, còn được gọi là Cải tổ
Y tế, hoặc có tên Obamacare đã được thông qua vào tháng 3 năm 2010. Cuộc tranh
chấp giữa hai đảng hay giữa Hạ viện đa số Cộng hoà với Thượng viện lẫn
Tổng thống Dân chủ làm cho một phần chính phủ phải ngưng hoạt động, ảnh hưởng
tới những sinh hoạt cần thiết của người dân. Hơn thế nữa, sẽ ảnh hưởng lớn tới
nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh tranh chấp chính trị của quốc gia dân
chủ tân tiến và hùng mạnh nhất hoàn cầu, người Việt học được gì qua kinh nghiệm
đó?
Đây là lần thứ hai trong vòng 17 năm qua đã xảy ra
tình trạng này. Tất nhiên, chỉ những phần không thiết yếu của chính quyền liên
bang là phải tạm đóng cửa, cũng đủ để tám trăm ngàn nhân viên liên bang phải
nghỉ việc không lương. Và chưa biết đến bao giờ. Một nhóm thiểu số của đảng
Cộng hoà gọi là Tea Party tìm mọi cách triệt hạ hay trì hoãn thi hành chương
trình Obamacare trong vòng một năm nếu muốn hai viện thoả hiệp trong việc biểu
quyết ngân sách hàng năm. Đảng Dân chủ nắm Thượng viện nhất định không nhượng
bộ, muốn đưa đạo luật ngân sách ra biểu quyết ngay mà không dính líu gì tới
Obamacare, sẽ đi vào hoạt động từ năm 2014. Đó là lý do chính yếu xảy ra bế
tắc.
Tại sao biểu quyết Ngân sách Liên bang, hay ít nhất,
gia hạn ngân sách cho chính phủ hoạt động, lại liên quan tới Obamacare? Theo
luật, mỗi viện Quốc hội có quyền biểu quyết ngân sách riêng, sau đó hai viện sẽ
thoả hiệp với nhau để đi đến kết quả cuối cùng mà đôi bên đồng ý. Tuy nhiên,
luật cũng cho phép các dân biểu được quyền đề nghị bất cứ điều gì ghi thêm vào
dự luật mà hai viện biểu quyết. Nhóm Tea Party liền đưa đề nghị hoãn thi hành
những điều khoản quan trọng của Obamacare, tức làm cho nó vô hiệu, sau khi tìm
mọi cách mà không thể chấm dứt tài trợ cho chương trình đó được. Năm ngoái họ
đã kiện đòi xoá bỏ luật này nhưng đã bị Tối cao Pháp viện bác bỏ. Tổng thống
Obama và đảng Dân Chủ coi việc thông qua dự luật Cải tổ Y tế của Quốc hội vào
năm 2010 là một thắng lợi lớn, thực hiện được giấc mơ theo đuổi trong mấy chục
năm qua là làm sao cho mọi người đều có bảo hiểm y tế. Thực ra, Obamacare không phải là chương trình bao
biện hay cung cấp dịch vụ y tế, mà chỉ trợ giá cho những ai không đủ điều kiện
tài chánh mua bảo hiểm sức khoẻ tư nhân, tương tự chương trình mà Mitt Romney –
đối thủ của Obama trong cuộc chạy đua tranh ghế tổng tống vừa qua – đã thực
hiện ở Massachusettes khi ông còn làm thống đốc ở đó. Kể từ 2014, các
tiểu bang sẽ thành lập các chương trình bảo hiểm rẻ tiền cho dân chúng, được
chính phủ liên bang trợ giúp. Từ năm 2015, những người chọn không mua bảo hiểm
sẽ bị trả tiền phạt thuế $95.00; từ 2017, tiền phạt tăng lên ít nhất là
$695.00. Thế nhưng, đảng Cộng Hoà, được những tập đoàn y sĩ, hệ thống
bệnh viện và các hãng bảo hiểm vận động hành lang nhằm trì hoãn Obamacare, lý
luận rằng việc bắt mọi người phải mua bảo hiểm là vi phạm đến quyền tự do mua
bán của người dân.
Sự việc chính phủ không có ngân sách hoạt động không
chỉ làm xáo trộn thị trường quốc nội mà còn làm gián đoạn trật tự kinh tế thế
giới. Thị trường chứng khoán Dow Jones tuy đã khôi phục lại niềm tin từ giới
đầu tư sau vụ ngưng tấn công vào Syria, đã liên tục rớt điểm ngay từ trước khi
có thông tin chính phủ Mỹ hết ngân khoản gần hai tuần lễ. Các kinh tế gia tiên
đoán mức tăng trưởng của quý bốn 2013 sẽ sụt giảm từ 2.2% xuống còn 1.8%.
Bế tắc chính trị không chỉ dừng lại ở chuyện ngân
sách.
Ngày 17 tháng 10 tới đây, hai đảng lại phải đối đầu
với trần nợ, tức tổng số tiền chính phủ có thể vay mượn để làm tròn các nghĩa
vụ pháp lý, trong đó có các chương trình An sinh Xã hội, chương trình bảo hiểm
xã hội Medicare, lương quân đội, lãi suất nợ quốc gia và tiền thuế hoàn lại cho
dân chúng. Từ năm 1960, quốc hội đã phải nâng giới hạn trần nợ 78 lần. Nếu mức
trần nợ không được nâng cao, quân đội sẽ không được trả lương, nguy hại tới
tình hình an ninh quốc gia. Khoảng 80% nhân viên CIA đã bị nghỉ việc không
lương.
Các nhà lãnh đạo kinh tế và tài chánh trên thế giới
đều lên tiếng kêu gọi Hoa Kỳ phải nâng mức trần nợ nếu không muốn lâm vào nguy
cơ không còn tiền chi trả các món nợ lần đầu tiên trong lịch sử, kể cả tiền lời
các trái phiếu nằm trong tay Trung Quốc, Nhật Bản và các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Các nhà phân tích đã cảnh báo rằng việc chính phủ đóng cửa kéo dài sẽ gây tổn
hại cho nền kinh tế Mỹ. Nhưng nguy cơ vỡ nợ còn đem đến những hậu quả tai hại
hơn nhiều, có thể đẩy nền kinh tế đang chật vật phục hồi sau cơn suy thoái về
khủng hoảng tài chánh và bất động sản vừa qua vào cuộc suy thoái mới. Tổng giám
đốc IMF, Christine Lagarde, cảnh báo rằng “những bất ổn tiếp diễn về chính trị
xoay quanh ngân sách, mức trần nợ, không giúp ích gì cả. Việc đóng cửa chính
phủ đã quá tệ hại. Nhưng việc không thể nâng mức trần nợ còn xấu hơn nhiều và
sẽ gây tổn hại hết sức nghiêm trọng không chỉ với kinh tế Mỹ mà cả kinh tế toàn
cầu nữa”.
Điều đáng nói là mặc dù được khuyến cáo từ mọi phía,
lãnh đạo hai đảng vẫn không thể đi đến một thoả hiệp nào mà còn đổ lỗi cho
nhau. Chủ tịch Hạ viện, John Boehner, nói với các phóng viên rằng ông “thất
vọng vì tổng thống đã bác bỏ đề nghị đàm phán”. Ngược lại, Tổng thống Obama cho
rằng bất kỳ một cuộc đàm phán nào xung quanh vấn đề ngân sách và trần nợ cũng
không thể đi kèm với việc đe dọa đóng cửa chính phủ và gây xáo trộn cho nền
kinh tế lên đầu người dân Mỹ. Ông tuyên bố, “chúng ta không thể để hành động tống tiền trở thành
một phần trong nền dân chủ của chúng ta”.
Với khủng hoảng chính trị từ một trong những quốc
gia có nền dân chủ tân tiến và cường thịnh nhất thế giới như Hoa Kỳ, người Việt
rút ra được bài học gì cho việc chuyển hoá và xây dựng dân chủ trong tương lai?
Đề
nghị hướng giải quyết
Để giải quyết bế tắc chính trị tương tự như của Hoa
Kỳ, chúng ta cần phải thay đổi tư duy và cách thức sinh hoạt dân chủ.
Nền dân chủ với hệ thống chính quyền dựa căn bản
trên đảng phái và các chính trị gia chuyên nghiệp đã càng ngày càng tỏ ra kém
hữu hiệu, dễ vướng vào bế tắc nếu các chính đảng không thể thoả hiệp với nhau
về một chính sách nào đó. Các chính trị gia thường có khuynh hướng sử dụng
quyền làm luật và vai trò thiết kế chính sách quốc gia để bắt bí, đả phá nhau
mỗi khi quyền lợi phe phái bị ảnh hưởng, để mị dân hay để giành phiếu trong kỳ
bầu cử kế tiếp. Vai trò của người dân trong sinh hoạt chính trị trở thành thứ
yếu, các đảng phái trở nên trội yếu. Quyền lực và quyền lợi của người dân thay
vì được thực thi và tôn trọng, đã bị các đảng phái thao túng, cho dù vẫn sinh
hoạt trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Thể chế dân chủ chúng ta trông đợi
không chỉ là dân chủ từ trên chính quyền xuống, mà còn phải phối hợp nhịp nhàng
từ dưới dân chúng lên, bảo đảm quyền lực thực sự là của toàn dân. Với các tiến
bộ trong thời đại hiện nay, nhất là hệ thống thông tin liên lạc điện tử, một
nền dân chủ toàn dân tham gia có thể thực hiện được.
Vai
trò khác biệt giữa chính và trị (*)
Chính trị, hiểu như hiện nay, thường chỉ có nghĩa là
sinh hoạt của các chính trị gia, các đảng phái và của chính quyền. Chính trị
đúng nghĩa phải là “thiết kế và chấp hành dân sinh” (*), và phải là công việc
chung của cả chính quyền và người dân, chứ không thể chỉ là công việc và trách
nhiệm riêng của những người “làm chính trị” trong nền chính trị đại nghị hiện
nay. Cần có một cơ chế dân chủ mới, tạo điều kiện để toàn dân cùng tham gia vào
việc nước (“thiết kế và chấp hành dân sinh”), tránh đảng tranh và khủng hoảng
chính trị. Nền dân chủ mới này phải mang ba nội hàm sau.
Thứ nhất, cần phân biệt giữa chính và trị trong từ
kép “chính trị”.
Chính, thuộc quyền người dân; trị, thuộc phần chính
quyền.
Chính, bao gồm các sách lược, chính sách quốc gia
trên mọi bình diện, từ văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội đến an ninh, ngoại
giao, quốc phòng v.v… phải được đề xuất từ người dân thuộc mọi thành phần dân
tộc, chứ không chỉ là đảng viên các đảng phái và tuỳ thuộc vào các chính đảng
như hiện nay. Trị (quản trị), vai trò điều hành guồng máy sinh hoạt quốc gia
thuộc trách nhiệm nhà nước, có thể bao gồm các chính đảng. Một trong những
nhiệm vụ quan yếu của chính quyền là tạo phương tiện và cơ hội cho mọi cá nhân,
tập thể và xã hội dân sự phát huy hết khả năng và sức sáng tạo chứ không phải
lạm dụng quyền lực rồi đàn áp, ức chế người dân làm thui chột tài năng con
người.
Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của toàn dân
cần hoạt động độc lập với các đảng phái. Sự độc lập này là nhằm ngăn chặn nguy
cơ xung đột quyền lợi giữa công (quyền lợi quốc gia) và tư (quyền lợi đảng
phái). Vì không phân biệt rõ ràng chức năng giữa chính và trị, các đảng phái
vừa làm luật (đá bóng), vừa tranh giành quyền thi hành luật của ngành hành pháp
(thổi còi) mặc dù được luật pháp cho phép. Sự lẫn lộn này dễ gây nên bế tắc
chính trị mà ta thường thấy ở ngay các nước dân chủ tiên tiến nhất. Trong thế
giới hội nhập và phát triển ngày nay, bất kỳ một sự khủng hoảng chính trị hay
kinh tế nào tại mỗi quốc gia, đều có thể ảnh hưởng đến khu vực hay toàn cầu như
trường hợp Hoa Kỳ mà chúng ta đang chứng kiến, do đó đòi hỏi những bước cải
tiến căn bản trong sinh hoạt chính trị.
Dân
chủ toàn dân và trực tiếp (*)
Thứ nhì, đa số các nền dân chủ trên thế giới đều
theo mô hình các chính đảng đưa đại diện của mình ra cho dân chúng bầu chọn.
Tất nhiên, đa đảng tốt hơn thể chế độc đảng bội phần, nhưng người dân vẫn chưa
có cơ hội bình đẳng trong việc đề cử và ứng cử vào các chức vụ công quyền, nhất
là ở cơ quan quyền lực cao nhất là quốc hội. Tại Mỹ, gần như chỉ đảng viên
thuộc hai đảng lớn là Dân Chủ và Cộng Hoà là có cơ hội được ngồi trong lưỡng
viện quốc hội. Ở các quốc gia đa đảng khác cũng tương tự, tức đảng viên các
chính đảng mới có cơ hội trúng cử. Mặc dù đa đảng, mô hình chính trị ngày nay
vẫn mang tính (đa) đảng cử, dân bầu, chưa đạt được mô thức dân cử, dân bầu, để
chính quyền thực sự là “của dân, do dân và vì dân”. Tình trạng này dẫn đến sự
việc là người dân không thực sự có quyền mà chỉ gián tiếp qua các chính đảng.
Nếu các đảng phái không thể thoả hiệp với nhau về một chính sách nào đó, thường
dẫn đến bế tắc chính trị, có khi phải giải tán quốc hội để bầu lại khiến người
dân mất dần niềm tin vào các chính trị gia, xa lánh chính trị và xem các sinh
hoạt chính trị chỉ là đấu trường giành giật quyền lợi phe nhóm mang tính đảng
tranh chứ không phải để phục vụ xã hội. Do đó, người dân cần một cơ chế mới để
có thể trực tiếp quyết định những việc quan trọng, nhất là những vấn đề liên hệ
đến đời sống hằng ngày của họ, chứ không chỉ phó thác sinh mệnh chính trị cho
các chính trị gia phe nhóm đảng phái chuyên nghiệp.
Phân
công và hợp tác (*)
Cuối cùng, sự phân quyền trong hệ thống công quyền
giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp không thôi chưa đủ, nền chính trị
quốc gia còn phải mang tính phân công và nhất là hợp tác. Tuy đã có cơ cấu phân
quyền, hai ngành hành pháp và lập pháp vẫn tìm cách ngáng trở nhau mỗi khi có
dịp chứ chưa hoàn toàn hợp tác làm việc, gây ra bởi quyền lợi phe nhóm. Phân
quyền chính là để ngăn chặn cảnh tranh giành quyền lực chứ chưa đạt tới sự phân
công và hợp tác nhuần nhuyễn giữa các cơ chế dân sự và nhà nước. Phân công là
để tránh sự trùng lắp, dẫm chân lên nhau và để mỗi bộ phận làm đúng và đủ chức
năng lẫn nhiệm vụ của mình. Hợp tác là để cả bộ máy vận động và kết hợp hoạt
động nhịp nhàng.
Hãy hình dung cơ thể con người. Giữa tim và óc hay
các cơ phận khác không có sự “phân quyền”, nhưng rõ ràng mỗi bộ phận được “phân
công” làm một hay nhiều chức năng khác nhau. Chúng “hợp tác” với nhau để một cơ
thể hoạt động bình thường và mạnh khoẻ. Muốn sinh hoạt chính trị hữu hiệu và
lành mạnh hơn, nền dân chủ mới cũng cần được nhìn tương tự như thế. Phân công mà không hợp tác sẽ
gây trì trệ, khó phát triển. Hợp tác mà không phân công sẽ dẫn đến rối loạn.
Kết
Để đạt được những điều trên, xã hội cần đến một
phương tiện hỗ trợ. Đó là hệ thống giáo dục nhân bản, qua nhiều hình thức, vừa
nuôi vừa dưỡng và để mọi người vừa học vừa làm. Mỗi cá nhân và mỗi tập thể phải
được nâng cao ý thức công dân, đạt đến trình độ tự giác, tự chủ quyết định sinh
mệnh chính trị của mình, chứ không chỉ trông chờ hoặc giao phó toàn bộ cho sinh
hoạt đảng phái.
© Tạ Dzu
© Đàn Chim Việt
———————————————————————————————-
(*) Ghi chú: Tất cả những khái niệm này là đề xuất
của nhà tư tưởng Lý Đông A vào đầu thập niên 1940, được đề cập đến trong học
thuyết cơ năng bản vị qua hai tài liệu Duy Dân Cơ Năng và Cơ
Năng Hiến Pháp.
No comments:
Post a Comment