Lê Văn Liêm
Tác
giả gửi tới Dân Luận
Thứ Tư, 09/10/2013
Từ một quốc gia Châu Á phong
kiến lạc hậu, nghèo tài nguyên thiên nhiên, từng bị Nho giáo chi phối, Nhật Bản
đã nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế thứ 3 trên thế giới.
Tại sao vậy? - Đây là câu hỏi
đang được nhiều học giả tìm hiểu, giải đáp.
Xin trích, giới thiệu bài “Le
Japon“ trên (http://fr.wikipedia.org/)
tháng 2/2012 để bạn đọc cùng tham khảo.
Vài nét đại cương về nước Nhật
Lãnh thổ Nhật Bản gồm 6.852
đảo ở Thái Bình Dương, trong đó có 4 đảo lớn nhất là Honshu, Hokkaido,
Kyushu và Shikoku, chiếm 97% tổng diện tích nước Nhật. Nước Nhật nằm ở phía
đông nước Nga, CHND Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên.
Hiện nay Nhật Bản là nước quân
chủ lập hiến. Theo Hiến pháp Nhật Bản năm 1947, Vua Nhật là biểu tượng cho nước
Nhật, quyền lực rất hạn chế. Quốc hội là cơ quan lập pháp, gồm Hạ Viện và
Thượng Viện
Quyền hành pháp thuộc về Nội
các, do Thủ tướng đứng đầu. Cơ quan tư pháp gồm Pháp Viện tối cao, 8 toà án cấp
cao và các toà án địa phương, toà án gia đình. Tổng số công chức Nhật Bản năm
2011 là 1,17 triệu người. Các Đảng chính trị ở Nhật được Luật pháp công nhận sự
tồn tại.
Tổng diện tích nước Nhật là
379.954 Km2. Dân số Nhật năm 2010 là 126.804.438 người , mật độ 335
người/Km2. Có 4 nhóm dân tộc chính: Nhật 98%, Hàn 0,5%, Hoa 0,4 %, nhóm các dân
tộc khác chiếm 0,6%. Thủ đô Nhật là Tokyo. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Nhật.
Đồng tiền lưu hành là đồng Yen (JPY).
Về địa dư, nước Nhật nằm trên
đường ranh giới giữa 4 mảng kiến tạo địa chất của trái đất, có nhiều núi lửa, là
1 trong những quốc gia bị nhiều thiên tai, nghiêm trọng nhất là động đất và
sóng thần. 80% diền tích cả nước Nhật là núi. Các vùng dân cư có thể sinh sống
chủ yếu gần các eo biển. Nước Nhật được đánh giá là 1 trong 10 đất nước có
phong cảnh đẹp nhất thế giới, đặc trưng là ngọn núi Phú Sĩ.
Nước Nhật là 1 quần đảo trải
dài dọc biển Thái Bình Dương, thuộc vùng ôn đới nên khí hậu chủ yếu là ôn
hoà, có 4 mùa rõ rệt .
Từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ
19, nước Nhật thi hành chính sách đóng cửa. Giữa thế kỷ 19, Nhật hoàng
Meiji (Minh Trị) thực hiện chính sách duy tân, mở cửa triệt để với Phương Tây
và rời thủ đô từ Kyoto về Tokio. Từ đó Nhật Bản công nghiệp hóa nhanh mạnh và
phát triển mọi mặt. Năm 1945 nước Nhật bại trận trong chiền tranh thế giới lần
thứ 2, phải đầu hàng, bị phe đồng minh chống phát xít chiếm đóng. Sau chiến
tranh, Nhật Bản tập trung mọi nguồn lực phục hồi và phát triển kinh tế. Nhật
Bản hoàn thành công nghiệp hoá vào cuối thập niên 1960, trở thành 1 trong những
nước tư bản phát triển.
Nhật Bản là một trong những
quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ và được đánh giá là một
trong những cường quốc kinh tế. Nhật là thành viên của Liên hiệp quốc, của Khối
G4, G8, G20, WTO và APEC.
Vùng thủ đô Tokyo là vùng đô
thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người. Cơ sở hạ tầng của Nhật rất
phát triển. Tính đến năm 2004 có 1.177.200 Km đượng bộ, 173 sân bay, 23.577 Km
đường sắt với các loại xe lửa địa phương, xe lửa cao tốc. Giao thông trong
thành phố có xe buýt, xe điện trên mặt đất và dưới mặt đất. Ở nông thôn và các
vùng xa có xe buýt địa phương. Mạng đường xá ở Nhật phủ đến tận các vùng dân cư
miền núi.
Nhật Bản có 7 di sản kiến trúc
được UNESCO ghi nhận là di sản thế giới, 7 di sản kiến trúc cấp quốc gia. Văn
hoá Nhật Bản là 1 trong những nền văn hoá đặc sắc của thế giới, gồm các nghệ
thuật thủ công, vườn Nhật, trà đạo, kiến trúc, âm nhạc. Hiện nay Manga Nhật Bản
là 1 thể loại truyện tranh nổi tiếng ở trong nước Nhật và ở nước ngoài, kể cả
Phương Tây.
Nhật Bản là 1 trong số các quốc
gia có mức sống rất cao. Chỉ số IDH năm 2007 là 0,960 (rất cao). Hệ số Gini năm
2002 là 38,1. Tuy vậy Nhật Bản đang đối diện với 2 vấn đề nan giải trong tương
lai. Đó là số dân quá đông trong các vùng dân cư và sự già nua dân số.
Hiện nay tỉ xuất sinh của Nhật
Bản là 1,25 trẻ em/ 1 bà mẹ. Ở Tokio là dưới 1, 0 /1. Theo dự đoán của các nhà
nhân số học, cứ theo đà suy giảm dân số này, đến năm 2050, dân số Nhật chỉ còn
90 triệu. Khi đó nước Nhật thiếu nguồn tài chính để duy trì quỹ hưu trí và các
quỹ phúc lợi xã hội khác.
Kinh tế của Nhật Bản:
Nhật Bản có rất ít tài
nguyên thiên nhiên. Nhật phải nhập khẩu hầu hết các loại khoáng sản, năng
lượng và phải nhập khẩu 50% nhu cầu lương thực. Nhưng theo Ngân hàng thế giới, Nhật
là cường quốc kinh tế thứ 3 của thế giới, sau Mỹ và CHND Trung Hoa. Năm
2009, tổng sản phẩm quốc nội PIB (tương tự GDP) tính theo sức mua tương đương
PPA của Nhật là 4.376 tỉ USD, chiếm 5,72 % PIB của cả thế giới. PIB tính theo
danh nghĩa (nominal) năm 2010 của Nhật là 5.471 tỉ USD. PIB của Nhật tính theo
bình quân đầu người là 43.168 USD.
Nhật Bản đang đứng trong hàng ngũ các quốc gia công
nghiệp , có nhiều tập đoàn công nghiệp
nổi tiếng như Toyota, Nissan, Honda, Mitsubishi, Canon, Panasonic, Sony, Akai,
Sharp, Nintendo… Nhật đang đứng hàng đầu thế giới về sản xuất ôtô và thiết bị
điện tử, hàng thứ 2 thế giới về chế tạo các loại tầu biển (gồm tầu chở hàng,
tầu chở containeur, tầu chở dầu). Công nghiệp Nhật góp tới 39% PIB (Mỹ chỉ góp
được 25% PIB). Công nghiệp thu hút tới 33% dân số ở độ tuổi lao động vào làm
việc (Pháp là 25%). Nhật Bản có năng lực công nghiệp rất lớn với công nghệ
sản xuất tiên tiến hàng đầu thế giới về các sản phẩm thép, vật liệu phi kim
loại, xe có động cơ, thiết bị điện tử, máy móc, chế tạo tầu biển, hoá chất, hàng
dệt may, thực phẩm đã chế biến … Ngành xây dựng và cầu đường của Nhật (dân
dụng, công nghiệp, cầu đường …) đã ra đời từ lâu với công nghệ và kỹ thuật hiện
đại. Nhật Bản nằm giữa đại dương, hàng hải phát triển mạnh , có 3.751
tầu biển với tổng trọng tải hàng hoá khoảng 183 triệu tấn, đứng thứ hai thế
giới về năng lực hàng hải, chiếm 15,7% tổng trọng tải của thế giới, chỉ xếp
hạng sau Hy Lạp (Grèce). Nhật Bản có khu vực kinh tế dịch vụ đa dạng, có sức
cạnh tranh cao, đặc biệt ở các ngành kinh tế mũi nhọn.
Chỉ số lạm phát của Nhật, theo IMF, trong khoảng thời gian từ 1998 đến 2008 là thấp
nhất thế giới .
Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài
chính và ngân hàng lớn hàng đầu thế giới. Thị trường chứng khoán Tokyo lớn thứ
hai thế giới. Tập đoàn tài chính Mitsubishi có số vốn 1.700 tỉ USD. Cán cân
thương mại của Nhật nghiêng về phía dư thừa. Dự trữ ngoại tệ của Nhật thuộc
hàng đầu thế giới.
Nhật đứng hàng thứ tư thế giới
về xuất khẩu (thiết bị giao thông, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc, hoá
chất). Bạn hàng nhập khẩu của Nhật là Mỹ 22,9%, CHNDTH 13,4%, Hàn quốc 7,8%.
Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu
rất lớn, đặc biệt từ CHNDTH 21%, từ Mỹ 12,7%, từ Ảrập Xêut 5,5%.
Khoa học công nghệ Nhật Bản
Nhật là 1 trong những quốc
gia dẫn đầu thế giới về khoa học công nghệ, có khoảng 700.000 (bảy trăm
ngàn) nhà nghiên cứu khoa học. Ngân sách chi cho nghiên cứu và phát triển
của Nhật đứng hạng ba thế giới . Nhật Bản là nhà phát minh trong nhiều lĩnh
vực, như: ôtô, Rôbốt công nghiệp, thiết bị quang học, chất bán dẫn, thiết bị điện
tử, sản phẩm hoá chất. Nhật Bản có nhiều thành tựu ứng dụng khoa học nổi tiếng
thế giới, trong đó có tầu hoả cao tốc Shinkansen type 500, ôtô Toyota Prius
dùng hỗn hợp nhiên liệu xăng-điện, Robot thông minh AIBO, Module Kibo đã phóng
lên nghiên cứu không gian vũ trụ. Nhật Bản sở hữu 402.200 trong số 742.500
Robot công nghiệp của thế giới, chiếm 6 trong số 15 nhà sản xuất ôtô lớn nhất
thế giới, chiếm 7 trong 20 nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất thế giới.
Nhật Bản đứng đầu Châu Á về giải thưởng Nobel và giải
thưởng Fields . Từ 1949 đến 2008, Nhật đã 9
lần được nhận giải Nobel khoa học, 3 lần nhận giải Fields toán học của thế
giới.
Đặc thù tổ chức kinh tế của Nhật Bản
Khoảng thời gian 1960 – 1980
được coi là thời gian phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản (miracle
économique japonais). Sự phát triển này có điểm đặc trưng là dựa trên 1
nguồn vốn quan trọng về con người Nhật Bản (capital humain) cộng
với sự liên kết giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, 1 nền sản xuất hướng vào
xuất khẩu (trong đó phần rất quan trọng là hướng sang Châu Á và Châu Mỹ), 1
nền đạo lý vững chắc về lao động kiểu Nhật, tài khéo léo bậc thầy về những kỹ
thuật mũi nhọn dựa trên thành tựu nghiên cứu khoa học và thêm vào đó nhờ
mức chi thấp cho quân sự (khoảng 1% PIB).
Nhật Bản có đặc thù tổ chức
kinh tế khác với nhiều quốc gia:
- Có những mối liên kết chặt
chẽ giữa những xí nghiệp công nghiệp, những nhà thầu (sous-traitants),
những nhà phân phối, trong những tập đoàn có tên là keiretsu.
- Có năng lực mạnh của các
Nghiệp đoàn giải quyết có hiệu quả những tranh chấp trong xí nghiệp với văn hoá
đối thoại và cách vận động giải quyết các yêu sách về tiền lương thường xảy ra
hàng năm vào mùa xuân.
- Sự đầu tư mạnh cho nghiên cứu
và phát triển.
Từ 1990, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Nhật Bản chậm lại. Năm 2008 Nhật Bản chính thức bước vào suy thoái.
Không giống Phương Tây suy thoái bắt đầu từ khủng hoảng cho vay thế
chấp. Suy thoái ở Nhật có nguyên nhân từ sự sụt giảm mạnh về khối lượng đầu tư
và giảm sút mạnh nhu cầu ở nước ngoài về các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Nhật. Nợ công của Nhật rất lớn, hiện chiếm đến 170% PIB.
Trong quá khứ và cho đến gần
đây, nhiều nhà tuyển dụng Nhật Bản cam kết bảo đảm công ăn việc làm suốt đời
cho người làm công (à vie et pour la vie). Nhưng từ khi bùng nổ bong
bóng đầu tư ở Nhật, 1 loạt các nhà thầu bị đóng cửa thì việc sa thải lao động
đã xảy ra, xoá bỏ huyền thoại Nhật Bản về công ăn việc làm suốt đời. Khủng
hoảng kinh tế là lý do cội nguồn của sự gia tăng nạn thất nghiệp ở Nhật (5% đầu
năm 2000, 4% năm 2008). Nó định hình sự nghèo khổ, tình trạng người không có
chỗ ở, tình trạng việc làm tạm bợ. Hiện nay Nhật đang thực hiện chính sách cải
cách kinh tế. Chương trình cải cách đã đi đúng quỹ đạo , chậm nhưng đã
tạo được xu thế không thể đảo ngược và đã có kết quả bước đầu.
Giáo dục đào tạo của Nhật Bản
Từ thế kỷ thứ 6, nền giáo dục
của Nhật Bản chịu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa và Phật giáo. Sang thời
kỳ Meiji (Minh Trị), vào khoảng 1868, Nhật Bản đã du nhập nền giáo dục
của Phương Tây, dạy trong các trường đại học và trong các trường quân sự.
Nhật đã mời khoảng 500 giáo sư Phương Tây đến giảng dạy cho 15 trường đại học
đầu tiên của Nhật. Cuộc cải cách giáo dục ở Nhật theo nền giáo dục Phương Tây
kéo dài suốt 20 năm, đến năm 1890. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản
lại thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai. Từ cuối thập niên 1960, người
Nhật toả đi học khắp nơi trên thế giới để trở về xây dựng hệ thống giáo dục như
ngày nay và đang đứng hạng 3 trong số 37 quốc gia có 500 trường đại học đạt
chất lượng đào tạo tốt nhất thế giới. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản áp dụng
theo mô hình Anglo-Saxon và chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục- Văn hoá- Thể thao-
Khoa học và công nghệ (gọi tắt là Bộ Giáo dục – MEXT). Năm 2005 Nhật Bản đã chi
5.733 tỉ Yen (tương đương 59 tỉ USD) cho giáo dục, chiếm 7% tổng ngân sách quốc
gia.
Theo các báo chí nước ngoài, nền
giáo dục Nhật Bản mang tính cạnh tranh cao và giáo dục đại học ở Nhật là
giáo dục theo chủ nghĩa tinh hoa , có 2 đặc điểm:
Một là sự tuyển sinh khắt
khe bằng các kỳ thi vào trường trung học giai đoạn 2 (gọi là trung học 2,
tương tự THPT của Việt Nam) và thi vào đại học ; Hai là sự phân cấp quản lý
giáo dục mạnh cho địa phương.
Nhìn chung, học sinh Nhật Bản
học rất chuyên cần ngay từ khi học lớp mẫu giáo cho đến khi vào đại học.
Các bậc học trong hệ thống giáo dục Nhật Bản gồm:
- Mẫu giáo 3 năm, thu nhận học
sinh từ độ tuổi 3 hoặc 4, đến 5 hoặc 6.
- Tiểu học 6 năm, từ độ tuổi 6
- 7 đến 11 -12.
- Trung học giai đoạn 1 kéo dài
3 năm, từ độ tuổi 12-13 đến 14-15 (trung học 1, tương tự THCSVN)
- Trung học giai đoạn 2 kéo dài
3 năm, từ độ tuổi 15-16 đến 17-18 (trung học 2, tương tự THPTVN)
- Cao đẳng 2 năm (sau trung học
2), từ tuổi 18 -19 đến 19 -20
- Cử nhân 4 năm (sau trung học
2), từ tuổi 18 -19 đến 21-22
- Thạc sĩ 2 năm (sau cử nhân),
- Tiến sĩ PhD (sau thạc sĩ) 3
năm hoặc 4 năm (tuỳ chuyên ngành).
Chế độ giáo dục bắt buộc miễn phí quy định trong Luật
giáo dục Nhật Bản là 9 năm , kể từ lớp 1 tiểu học đến hết bậc trung học 1, thực hiện trong các
trường công lập.
Năm học của Nhật Bản bắt đầu từ
tháng tư (Avril), gồm 210 ngày học, chia thành 3 kỳ học theo mùa:
Kỳ 1 kéo dài 3 tháng rưỡi từ
đầu tháng 4 đến giữa tháng 7. Kỳ 2 kéo dài 4 tháng từ đầu tháng 9 đến hết tháng
12. Kỳ 3 kéo dài 2 tháng từ tháng 1 đến tháng 3.
Giáo dục mẫu giáo được thực
hiện trong các trường mẫu giáo hoặc trong các trung tâm giáo dục cả ngày
(day-cares centers) công lập hay tư thục. Những trung tâm giáo dục cả ngày tư
thục nhận trẻ từ trên 1 tuổi đến 5 tuổi. Ở Nhật có khoảng 5% học sinh bậc trung
học 1 theo học các trường tư. Năm 1988 mức phí học tại các trường này khoảng
558.592 Yen/1 học sinh-1năm học (tương đương 3.989 USD). Năm 1989, có 45%
trường trung học 1 công lập được trang bị đầy đủ máy vi tính để dạy học. Tại trường
trung học 1, học sinh được học các môn: Tiếng Nhật, Toán, Khoa học, Tiếng Anh,
Nghệ thuật tạo hình (Fine arts), âm nhạc, sức khoẻ và giáo dục thể chất. Mỗi
học sinh phải tham gia 1 câu lạc bộ (School clubs) của trường vào cuối tuần. Ở
Nhật Bản, ngoài giờ học ở trường, 1 số lớn học sinh trung học1 đi học thêm
những lớp ngoại khoá của tư nhân (extracurricular study school) vào sau
buổi chiều hoặc buổi tối (tiếng Nhật là các juku). Học sinh phải thi
vào trường trung học 2. Sau khi học xong trung học 1, học sinh có thể thôi
học để kiếm việc làm. Chính phủ Nhật Bản khuyến khích học sinh vào học hướng
nghiệp hoặc học tiếp lên trung học 2. Năm 2005 có khoảng 94% học sinh Nhật Bản
học xong trung học 1 học tiếp lên trung học 2.
Hầu hết các trường trung học 2 đều học cả 2 buổi. Chương
trình trung học 2 nhấn mạnh đến giáo dục hướng nghiệp nhằm trang bị cho học sinh khả năng tự lập trong
xã hội (emphasizes vocational education to enable students to be as independent
as possible within society). Học sinh được học nhiều chương trình hướng nghiệp
kỹ thuật (vocational – technical programs) như: tin học, hàng hải, nghề cá, gốm
sứ, buôn bán trong môi trường tiếng Anh. Học sinh trường trung học 2 có thể tự
chọn chương trình thiên về khoa học tự nhiên (toán, lý) hoặc thiên về khoa học
nhân văn để chuẩn bị cho bậc học đại học. Các trường trung học 2 tư thục chiếm
khoảng 55%. Năm 1980, chi phí cho 1 năm học ở loại trường này khoảng 600.000
Yen (4.250 USD). Ở Nhật Bản, giáo viên dạy trung học 2 bắt buộc phải có văn
bằng đại học 4 năm trở lên (university graduate).
Ở Nhật Bản không có kỳ thi quốc
gia tốt nghiệp bậc trung học 2 nhưng có kỳ kiểm tra (test) do Trung tâm tuyển
sinh quốc gia là 1 tổ chức độc lập, trực thuộc Bộ Giáo dục thực hiện. Kỳ kiểm
tra này nhằm chọn ra cái nền cho các trường đại học. Điểm kiểm tra là căn cứ
cho các trường đại học tuyển sinh.
Sau khi thành công ở kỳ kiểm
tra sau bậc trung học 2, học sinh thường học 1 khoá dự bị đại học 1 năm
(không bắt buộc) để thi vào đại học , hoặc để sẽ học chương trình đại học
bán thời gian (part-time) hoặc lớp đại học buổi tối.
Giáo dục bậc cao của Nhật Bản
có 2 loại trường: Trường đại học tổng hợp (Université, University) tiếng Nhật
là daigaka và trường chuyên nghiệp (École spécialisée, trong đó
bao gồm Cao đẳng 2 năm). Ở Nhật có 2 nhóm trường đại học tổng hợp công lập 4
năm, gồm 96 trường ĐHTH công lập quốc gia
(kokiritsu) và 39 trường ĐHTH công lập địa phương (koritsu)
. Năm 1991 có 372 trường ĐHTH tư thục đào tạo chương trình 4 năm. Phần lớn
các trường ĐHTH đào tạo 4 năm đều thực hiện chương tình học cả ngày (full-times
programs). Năm 2005 có trên 2,8 triệu sinh viên Nhật vào học các trường đại
học. Năm 1986, chi phí trung bình kể cả học phí và sinh hoạt phí cho 1 năm đại
học ở Nhật khoảng 1,4 triệu Yen (tương đương 10.000 USD). Nhiều sinh viên phải
đi làm ngoài giờ học để kiếm tiền hoặc vay tiền của Chính phủ để trang trải chi
phí học đại học. Năm 1991, khoảng 40% sinh viên đại học Nhật theo học các ngành
xã hội, kinh doanh (business), Luật, Kế toán (accounting), 19% theo học các
ngành khoa học công nghệ, 15% học nhân văn, 7% học sư phạm (education).
Tổ chức quốc tế OCDE công bố
kết quả đánh giá học sinh trung học 74 quốc gia theo chương trình PISA năm
2009, học sinh trung học Nhật Bản được xếp thứ 9/74 về Toán, thứ 5/74 về khoa
học, thứ 8/74 về ngôn ngữ học.
Theo sự xếp hạng của Đại học
giao thông Thượng Hải năm 2007, Nhật Bản được xếp hạng 3 trong số 37 quốc gia
có tên trong danh sách 500 trường đại học đạt chất lượng đào tạo tốt nhất thế
giới, sau Mỹ và Anh
Hiện nay có 4 trường đại học
thuộc Top đầu của đại học Nhật Bản là ĐHTH Tokio, ĐHTH Kyoto, ĐHTH Keio và ĐHTH
Wasedo.
Theo tạp chi Times Higher
Education 2011 trong chủ đề tiếng Anh “Education in Japan“ đăng trên http://en.wikipedia.org,
Nhật có 33 trường đại học được xếp hạng trong nhóm 100 trường đại học nổi tiếng
nhất Châu Á.
Bình luận của thế giới về chủ nghĩa tinh hoa trong giáo
dục của Nhật Bản
Báo chí thế giới có 2 xu
hướng đánh giá:
- Xu hướng thứ nhất cho rằng
xuất phát từ nhu cầu tồn tại và phát triển trong điều kiện thiên nhiên hết sức
nghiệt ngã, Nhật Bản phải chấp nhận cách thức giáo dục đào tạo khắt khe như vậy
và họ đã thành công.
- Xu hướng thứ hai, phần lớn là
các quốc gia Châu Âu trong đó có Pháp cho rằng cách giáo dục đào tạo theo chủ
nghĩa tinh hoa của Nhật Bản đi ngược trào lưu của thế giới, đưa lại nhiều hệ
quả tiêu cực đối với con người, làm người ta luôn luôn phải chịu đựng stress để
có thể chấp nhận cách đào tạo như thế.
Tiêu biểu là bài báo Pháp với
đầu đề “ Ảnh hưởng của chủ nghĩa tinh hoa ở Nhật Bản “ (Elitiste ) đăng
trên http://fr.wikipedia.org/,
tháng 12/ 2011 có đoạn viết:
“Do chủ nghĩa tinh hoa, người
ta phải luôn luôn thử vận may, làm sao vào được trường tốt nhất, kể từ tiểu
học, đến trung học, rồi đại học, rồi vào được 1 công ty tốt nhất (nguyên
văn: il faut toujours tenter d' aller dans la meilleure école, pour avoir le
maximum de chances d' entrer dans le meilleur collège, puis lycée, puis
université et entrer dans la meilleure société).
Bài báo viết tiếp: ”Điều
này dẫn đến 2 hệ quả:
Thứ nhất là sự tăng sinh những
lớp học buổi chiều (la prolifération des cours du soir ) mà người ta
nghĩ rằng ở đó học sinh có thể được nâng cao thêm trình độ học vấn và để các
bậc cha mẹ học sinh an tâm về bổn phận cuả họ đối với con cái. Những lớp học
như thế nhan nhản ở các thành phố lớn của Nhật Bản.
Thứ hai là vấn đề tài chính.
Nói chung các bậc cha mẹ Nhật Bản phải nhắm (viser) từ 2 đến 3 trường để
chọn ra được 1 trường cho con em họ. Có trường họ kỳ vọng thì con em họ lại
không chắc chắn vượt qua được kỳ thi tuyển chọn. Các trường khác ở mức trung
bình thì nhiều. Vì thế, một khi con em đã vào được trường có danh tiếng thì
đồng nghĩa với sự hy sinh của gia đình cho 1 khoản tài chính quan trọng, thường
là khá cao (assez élevés) trong nhiều năm học“.
Đến đây câu trả lời “Tại sao
người Nhật giỏi thế?“ vẫn còn bỏ ngỏ chờ ý kiến bạn đọc.
No comments:
Post a Comment