Dương Danh Huy và cộng sự
Quỹ Nghiên cứu
Biển Đông
Cập nhật: 09:14 GMT - thứ hai, 15 tháng 4, 2013
Những định nghĩa
pháp lý cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai
trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Sự quan trọng
này không chỉ vì công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH)
Phạm Văn Đồng, mà còn vì Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa từ năm 1954 đến 1975-1976.
Quốc gia duy trì chủ quyền
Trong phán quyết
năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án
Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra
Branca.
Tòa nói công
hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng
Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có hệ quả pháp lý mang tính quyết
định và không có tính chất ràng buộc cho Johor.
Nhưng Tòa lại
dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền và
dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc
Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi
vào tay Singapore.
Bài học cho Việt
Nam là: bất kể ban đầu Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, và dù cho chúng ta
có biện luận thành công rằng công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng không
có tính ràng buộc về hai quần đảo này đi nữa, việc VNDCCH không khẳng định chủ
quyền trong hơn 20 năm, trong khi các quốc gia khác làm điều đó, có khả năng sẽ
làm cho VNDCCH không còn cơ sở để đòi chủ quyền nữa.
Vì vậy, trong
lập luận pháp lý của Việt Nam phải có sự khẳng định chủ quyền đối với hai quần
đảo này từ một chính phủ khác, lúc đó là đại diện hợp pháp cho một quốc gia
Việt nào đó.
Trên lý thuyết,
nếu chứng minh được từ năm 1954 đến 1975 chỉ có một quốc gia, và chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH) là đại diện hợp pháp duy nhất của quốc gia đó, thì điều đó
cũng đủ là cơ sở cho lập luận pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa.
Trên thực tế, thứ nhất, chưa chắc chúng ta sẽ chứng minh được điều đó; thứ
nhì, chính phủ Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận một chiến lược pháp lý dựa
trên giả thuyết này.
Vì vậy, chiến lược khả thi hơn cho
lập luận pháp lý của Việt Nam cần dựa trên điểm then chốt là từ năm 1958 đến
1976 có hai quốc gia khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Phân tích này sử dụng ba khái niệm
sau.
Đất nước, là một khái niệm địa lý, bao gồm một
vùng lãnh thổ với dân cư. Chính phủ,
là cơ quan hành pháp và đại diện. Quốc
gia (trong bài này từ “quốc gia” được dùng với nghĩa State/État), là một
chủ thể chính trị và pháp lý.
Trong Công ước
Montevideo 1933, một quốc gia phải có lãnh thổ, dân cư, chính phủ, và khả năng
có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác.
Thực chất, trong
công pháp quốc tế chỉ có định nghĩa quốc gia như một chủ thể có năng lực pháp
lý và năng lực hành vi (tức là có các quyền và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ
luật quốc tế) và chính phủ là thành phần của chủ thể đó, chứ không có khái niệm
đất nước.
Một lãnh thổ - hai quốc gia
Hiệp định Genève
1954 chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự. Mặc dù không chia Việt
Nam thành hai quốc gia, Hiệp định đã tạo ra một ranh giới tại vĩ tuyến 17 giữa
hai chính phủ đang tranh giành quyền lực, và ranh giới đó đã tạo điều kiện cho
sự hiện hữu của hai quốc gia.
Việc VNCH không
chấp nhận thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956 đã làm cho ranh giới đó trở
thành vô hạn định.
Sự hiện hữu của
hai chính phủ hai bên một ranh giới vô hạn định ngày càng củng cố sự hình thành
và hiện hữu trên thực tế của hai quốc gia trên lãnh thổ đó.
Điều có thể gây
nghi vấn về sự hiện hữu của hai quốc gia là hiến pháp của VNDCCH và VNCH có vẻ
như mâu thuẫn với sự hiện hữu đó.
Tới năm 1956,
Hiến Pháp VNDCCH viết “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc
không thể phân chia”, và Hiến Pháp VNCH viết “Ý thức rằng Hiến pháp phải thực
hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan” và “Việt Nam là
một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.”
Nhưng sự mâu
thuẫn đó không có nghĩa không thể có hai quốc gia.
Hiến pháp của
Bắc Triều Tiên viết Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên là đại diện cho dân
tộc Cao Ly, hiến pháp của Nam Hàn viết lãnh thổ của Đại Hàn Dân Quốc là bán đảo
Cao Ly và các hải đảo, nhưng Bắc Triều Tiên và Nam Hàn vẫn là hai quốc gia.
Như vậy, có thể cho rằng từ năm 1956
hay sớm hơn đã có hai quốc gia, trên lãnh thổ Việt Nam, với vĩ tuyến 17 là biên
giới trên thực tế giữa hai quốc gia đó.
Việc có hai quốc
gia là cơ sở để cho rằng VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền đối với
Hoàng Sa, Trường Sa; VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ gì đối với hai quần
đảo đó.
Khi Chính Phủ
Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLT) ra đời ngày 8/6/1969, có
thể cho rằng trong quốc gia với tên VNCH, về mặt pháp lý, có hai chính phủ
cạnh tranh quyền lực với nhau: chính phủ VNCH và CPCMLT.
Khi VNDCCH công
nhận CPCMLT là đại diện hợp pháp cho phía nam vĩ tuyến 17 thì có nghĩa VNDCCH
công nhận trên diện pháp lý rằng phía nam vĩ tuyến 17 là một quốc gia khác.
Nhưng tới năm
1969 CPCMLT mới ra đời, và cho tới năm 1974 mới có một tuyên bố chung chung về
các nước liên quan cần xem xét vấn đề biên giới lãnh thổ trên tinh thần bình
đẳng, vv, và phải giải quyết bằng thương lượng.
Vì vậy, nếu chỉ
công nhận CPCMLT thì cũng không đủ cho việc khẳng định chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa từ thập niên 1950.
Quá trình thống nhất
Ngày 30/4/75,
VNCH sụp đổ, còn lại duy nhất CPCMLT trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17.
CPCMLT đổi tên quốc gia đó thành Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN), nhưng đó
chỉ là sự thay đổi chính phủ và đổi tên, không phải là sự ra đời của một quốc
gia mới.
Năm 1976, trên
diện pháp lý, hai quốc gia trên thống nhất lại thành một, và từ đó Việt Nam lại
là một quốc gia với một chính phủ trên một đất nước (lãnh thổ).
Sự thống nhất
này đã không bị Liên Hiệp Quốc hay quốc gia nào lên tiếng phản đối.
Năm 1977, Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được chấp nhận tham gia Liên Hiệp Quốc.
CHXHCNVN kế thừa
vai trò của hai quốc gia VNDCCH và VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ
chức quốc tế, kế thừa lãnh thổ và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh
chấp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, và mặc nhiên có quyền kế
thừa Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.
Lịch sử pháp lý
trên nghe có vẻ sách vở, nhưng thực tế của nó là bom đạn, xương máu, và nhiều
cảnh huynh đệ tương tàn.
Mặc dù lịch sử
pháp lý đó đã kết thúc bằng một quốc gia trên đất nước (lãnh thổ) Việt Nam
thống nhất, nó là một cuộc bể dâu làm đổ nhiều xương máu.
Nhưng quá khứ
thì không ai thay đổi được, và tương lai thì không ai nên muốn đất nước Việt
Nam lại bị chia đôi thành hai quốc gia lần nữa.
Cuộc bể dâu đó
cũng đã góp phần làm cho Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng, và để lại cho Trung
Quốc một lập luận lợi hại, rằng trước 1975 Việt Nam không tuyên bố chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và đã công nhận chủ quyền Trung Quốc
trên hai quần đảo này.
Nhưng việc đã
từng có hai quốc gia trên một đất nước (lãnh thổ) Việt Nam trong giai đoạn 1956
đến 1976, và việc, vào năm 1976, hai quốc gia đó thống nhất thành một một cách
hợp pháp, là một yếu tố quan trọng trong lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngày nay, chính
phủ Việt Nam một mặt viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam
Cộng Hòa về Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng mặt kia vẫn e ngại việc công nhận cụ
thể và rộng rãi rằng Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia, mặc dù trong
quá khứ Hà Nội đã công nhận rằng Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một quốc
gia.
Việc không công
nhận cụ thể và rộng rãi rằng VNCH đã từng là một quốc gia làm giảm đi tính
thuyết phục của việc viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của VNCH về
Hoàng Sa, Trường Sa, vì các tuyên bố và hành động chủ quyền phải là của một
quốc gia thì mới có giá trị pháp lý.
Vì vậy, chính
phủ Việt Nam cần phải bỏ sự e ngại này.
Mặt khác, Việt
Nam cũng cần phải hạn chế tối đa những gì Trung Quốc có thể lợi dụng để tuyên
truyền rằng CHXHCNVN ngày nay chỉ là VNDCCH, chẳng hạn như không nên đổi tên
nước thành VNDCCH.
Bài viết thể
hiện quan điểm riêng của Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh
từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Các tác giả cảm ơn GS Phạm Quang Tuấn đã góp ý
cho bài.
---------------------------------------------------
Jeudi 11 Avril 2013
No comments:
Post a Comment