Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
Cập nhật: 06:57 GMT - thứ hai, 15 tháng 4, 2013
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái
Bình Dương (TPP) có thể được khởi đầu từ tinh thần hòa giải, nhưng phải là một
sự hòa giải thực chất chứ không phải bóng gió quanh co.
Nhân tố nào đang
cần và còn thực sự mong đợi về một cuộc hòa giải không bình thường như thế?
“Âm mưu của kẻ
thù”
Vào thời điểm kỷ
niệm 24 năm từ khi Việt Nam chính thức mở cửa kinh tế, 12 năm từ lúc Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ được xem như một “bước ngoặt”, 6 năm “cơ hội” cho việc lần
đầu tiên quốc gia này gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, một lần nữa mối
tương quan Mỹ - Việt lại chuyển sang một khúc quanh thách thức mới: Hiệp định
đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trùng thời gian
với ước nguyện của Việt Nam được chấp nhận như một thành viên của TPP, những
dấu hiệu vốn ngầm ẩn lại có cơ hội hiển lộ tính tín hiệu ở đất nước này.
Nhưng có vẻ trái
với quy luật thường thấy, vào lần này mối liên đới về quốc phòng lại đi trước
chủ đề về kinh tế.
Khi tháng 4/2013
trôi qua được gần một phần ba thời gian và vô tình sát với thời điểm diễn ra
cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ được nối lại ở Hà Nội sau vài lần bị phía
Mỹ từ chối, Hoa Kỳ dường như đã trở thành “phát ngôn viên” tiên phong về vấn
đề bảo vệ ngư dân Việt ở khu vực Biển Đông.
William Lee -
Chuẩn đô đốc phụ trách về chính sách và năng lực của Tuần duyên Hoa Kỳ, cho
trang mạng US News biết về “một cuộc gặp
giữa quan chức hai bên đã diễn ra trong tuần lễ sau khi có sự kiện tàu cá của
Việt Nam bị Trung Quốc bắn cháy nóc cabin”; và “hai nước Việt Nam và Mỹ đang
hợp tác để phát triển lực lượng cảnh sát biển đủ năng lực giúp các ngư dân Việt
Nam khi họ gặp nạn”.
Rất tương đồng
về mặt địa lý và có thể cả trên phương diện địa - chính trị, Biển Đông lại là
một thành phần “không thể thiếu” của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tức cũng
là một thành tố nhất quán của Hiệp định TPP.
Trước tiết lộ
của Chuẩn đô đốc William Lee một ngày, trong một hành động hiếm hoi, Bộ trưởng
ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã “ra thăm và làm việc” tại đảo Lý Sơn,
được xem là một địa chỉ có nhiều ngư dân bị Trung Quốc xâm hại khi hành nghề
tại vùng biển Hoàng Sa.
Cũng là một lần
dũng cảm hiếm hoi trong những năm qua, người đứng đầu ngành ngoại giao Việt Nam
đề cập đến cụm từ “âm mưu của kẻ thù” khi nhắc nhở quân dân của huyện đảo Lý
Sơn cần hết sức cảnh giác để bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới biển đảo.
Cùng thời gian
trên, cụm từ “âm mưu của các thế lực thù địch” - thường được sử dụng để ám chỉ
sự can thiệp của phương Tây về các vấn đề dân chủ và nhân quyền - lại có vẻ
nhạt nhòa một cách bất thường trên mặt các báo Đảng như Nhân dân và Quân đội
nhân dân.
Vô tình hay hữu
ý, chỉ một ngày sau tiết lộ của Chuẩn đô đốc William Lee, một ủy viên Bộ chính
trị là Bộ trưởng quốc phòng, đại tướng Phùng Quang Thanh đã có một cuộc “thăm
và kiểm tra” tại Cục cảnh sát biển - một lực lượng trực thuộc Bộ quốc phòng
Việt Nam.
Nhân quyền
“xuyên Thái Bình Dương”
Từ con mắt của
phương Tây, Biển Đông cũng là một mối quan tâm đặc biệt trên bản đồ kỷ niệm 40
năm quan hệ Pháp - Việt.
Trước khi hiển
lộ những tín hiệu “hợp tác đa phương” vào đầu tháng 4/2013, từng mối “quan hệ
song phương” đã được ấp ủ và nhen nhóm. Vào những ngày cuối tháng Ba, một cuộc
hội kiến giữa Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh với người tương
nhiệm Laurent Fabius đã diễn ra tại Paris. Sau cuộc hội kiến này, hai ngoại
trưởng đã ra thông cáo chung về việc sẽ nâng cấp quan hệ song phương lên “đối
tác chiến lược” trong năm 2013.
Không chỉ quan
tâm đến vấn đề Biển Đông, bản thông cáo chung Pháp - Việt còn cho thấy dân
Gaulois cũng hết sức quan tâm đến việc “thúc đẩy nhà nước pháp quyền và quyền
con người” trong tinh thần đối thoại giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam.
Vô tình hay hữu
ý, “chuyến thăm và làm việc” tại Paris để nhận giải thưởng “Công dân mạng năm
2013” của Tổ chức phóng viên không biên giới của blogger Huỳnh Ngọc Chênh -
người được báo Nhân dân mô tả “tỏ ra rất hí hửng và đắc thắng với “vinh dự” của
mình” - đã suôn sẻ đến mức bản thân “đối tượng” này cũng phải ngạc nhiên. Không
khí thoải mái đến khó tin này lại chỉ diễn ra trước khi Bộ trưởng ngoại giao
Phạm Bình Minh đặt chân đến Kinh đô ánh sáng ít ngày.
Cùng thời gian
trên, bắt đầu phát lộ những tin tức đầu tiên về việc Việt Nam đang ứng cử vào
một trong những chiếc ghế của Hội đồng nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc.
Như một sự đồng
cảm, chủ đề TPP cũng được báo chí trong nước dồn dập nêu ra. Một lần nữa sau sự
kiện gia nhập Tổ chức thương mại thế giới 6 năm trước, cơ hội lại gắn liền với
thách thức.
Như thường được
diễn tả, là một hiệp định thương mại tự do khu vực toàn diện, TPP có thể mang
lại lợi ích kinh tế lớn cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế và đẩy mạnh
xuất khẩu, tạo thuận lợi cho thương mại và hiệu quả trong chuỗi cung ứng, hiện
đại hóa các lĩnh vực dịch vụ, tiếp cận thị trường tất cả các nước TPP, trong đó
có các lĩnh vực quan trọng của Việt Nam như nuôi trồng thủy sản, dệt may, da
giày, đồ nội thất, được giảm thuế đối với hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ…
Một triển vọng
quyến rũ là hiện thời xuất khẩu may mặc của Việt Nam sang thị trường Mỹ đang
phải chịu mức thuế từ 17,3-32%, nhưng mức thuế này sẽ được giảm xuống 0% nếu
Việt Nam được chấp thuận vào TPP. Tương ứng, xuất khẩu dệt may của Việt Nam
sang Mỹ dự kiến sẽ tăng từ 7% hiện nay lên 12-13%, thu về khoảng 30 tỷ USD vào
năm 2025.
Hiển nhiên, Hiệp
định TPP sẽ mở ra một thị trường rộng lớn cho các hàng hóa xuất khẩu.
Peter A. Petri,
một giáo sư của Đại học Brandeis của Mỹ, khẳng định rằng Việt Nam sẽ là nước
hưởng lợi ích nhiều nhất trong hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước
ngoài và quan hệ chặt chẽ hơn với chuỗi sản xuất quốc tế.
Vào thời gian
này, cùng với việc cụm từ “diễn biến hòa bình” dường như tan biến trên mặt báo
Đảng, một nền hòa bình thực sự đang được một số người cầu thị về khả năng hòa
giải của nó.
Hòa giải trọn
gói
Không khí có vẻ
lạc quan về TPP cũng khiến người ta nhớ lại về thái độ tương tự diễn ra cách
đây 12 năm, vào năm 2001, khi lần đầu tiên Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được
ký kết chính thức. Cũng là lần đầu tiên từ sau năm 1975, cánh cửa hòa giải lân
bang được mở tung.
Những gói viện
trợ trực tiếp và gián tiếp cũng thi nhau tuôn vào Việt Nam.
12 năm sau tinh
thần hòa giải trọn gói trên, một lần nữa tiếng chuông gia cố hòa giải lại vang
lên. Vào lần này, người gióng chuông là cựu ứng viên tổng thống Mỹ năm 1988 -
ông Michael Dukakis, hiện là Chủ tịch Diễn đàn toàn cầu Boston.
“Các bạn là một dân tộc điển hình về
hòa giải, hòa hợp sau chiến tranh, nỗ lực xây dựng một thế giới tránh xung đột” - giáo sư Dukakis tuôn trào chính
tại Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh vào ngày 8/4/2013, tức
cùng thời điểm với lời nhắc nhở về “âm mưu của kẻ thù” của Bộ trưởng ngoại giao
Phạm Bình Minh tại huyện đảo Lý Sơn.
Bộ đôi quyền lực
mà ông Dukakis đặt cược cho tương lai quan hệ Việt - Mỹ là Bộ trưởng quốc phòng
Chuck Hagel và Ngoại trưởng John Kerry - những người từng là cựu binh của cuộc
chiến tranh ở Việt Nam nhưng tiên phong nỗ lực đóng góp cho bình thường hóa
quan hệ sau chiến tranh.
Dukakis cũng cho
rằng, lịch sử chưa bao giờ có được bộ đôi quyền lực thuận lợi như vậy cho quan
hệ ngoại giao Việt - Mỹ.
“Tinh thần hòa
giải Dukakis” cũng gợi cho dư luận nhớ lại một sự kiện, tuy không được báo chí
trong nước đề cập, nhưng lại tỏ ra không kém cạnh về ý nghĩa hòa giải, diễn ra
vào tháng 3/2013.
Đó là sự hiện
diện “đến thăm và thắp hương” của Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh
Sơn tại đài tưởng niệm bằng đá đen mới được dựng lên trong nghĩa trang quân đội
Biên Hòa cũ ở tỉnh Bình Dương, nơi chôn cất 16.000 binh lính Việt Nam cộng hòa
đã tử trận.
“Lần đầu tiên một quan chức Việt Nam
bày tỏ nghĩa cử tưởng nhớ đối với tử sĩ Việt Nam cộng hòa, những chiến binh của
phía thua cuộc” - báo chí phương Tây bình luận.
Một chi tiết
đáng bình luận nữa là cùng đi thăm nghĩa trang với Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn
có ông Nguyễn Đạc Thành, nguyên thiếu tá quân lực Việt Nam cộng hòa, cựu tù cải
tạo và hiện là Chủ tịch Hội Vietnamese American Foundation.
Theo mô tả của
nhà báo Bùi Văn Phú ở California, sự kiện trên đã gây xôn xao dư luận hải ngoại
về chính sách hòa giải của Nhà nước Việt Nam.
Người ta cũng tự
hỏi rằng nhân tố nào đang cần và còn thực sự mong đợi về một cuộc hòa giải
không bình thường như thế?
“Ngọn cờ”?
Hòa giải cũng
dường như kéo theo tinh thần ân xá. Vào tháng 3/2013, lần đầu tiên kể từ năm
1975, Tổ chức ân xá quốc tế được đặt chân đến Việt Nam. Không những thế, tổ
chức này còn có vẻ khá hài lòng vì được làm việc với những “đối tượng” mà họ đề
nghị đích danh với chính quyền sở tại mà không bị “sách nhiễu”.
Không bao lâu
sau sự kiện đặc biệt trên, cựu thủ tướng Anh Tony Blair đã lần thứ hai đến Việt
Nam và có một cuộc hội kiến đáng ghi nhận với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nếu
Nhà nước Việt Nam đang rất hy vọng về tương lai nồng ấm với Pháp, mối quan hệ
Việt - Anh cũng đã được ông Dũng “đánh giá cao những đóng góp của ông Tony
Blair trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước lên tầm đối tác chiến
lược”.
Trong ý nghĩa
sâu xa, “đối tác chiến lược” có thể là một cụm từ sáo rỗng nếu nó không mang
lại điều gì thực chất. Nhưng ít nhất về mặt hình thức, giới lãnh đạo Việt Nam
sẽ được người ngoài đón tiếp chu đáo hơn.
Là lãnh đạo cao
cấp đầu tiên của Việt Nam khuyến nghị cần có Luật biểu tình trước Quốc hội vào
tháng 11/2011, ông Nguyễn Tấn Dũng cũng sẽ trở thành lãnh đạo cấp cao từ trước
tới nay - cách nào đó có thể coi là một “ngọn cờ” mới trong hoàn cảnh mới - làm
diễn giả chính tại Diễn đàn an ninh, quốc phòng đối thoại Shangri-La (SLD) lần
thứ 12, dự kiến sẽ tổ chức ở Singapore vào cuối tháng 5/2013.
Quy tụ trên dưới
400 quan chức quốc phòng, ngoại giao, học giả từ gần 40 quốc gia châu Á, châu
Mỹ và châu Âu, SLD được xem là diễn đàn an ninh, quốc phòng quan trọng nhất của
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Diễn đàn trên
cũng là nơi hội ngộ giữa các cựu binh, với sự tham dự của Bộ trưởng quốc phòng
Mỹ Chuck Hagel và Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Phùng Quanh Thanh.
Chỉ có điều,
trong bối cảnh đối thoại sòng phẳng và xán lạn trên, một cựu binh khác - “Người
nông dân nổi dậy” Đoàn Văn Vươn - lại vừa phải chịu án tù 5 năm từ một phiên
xét xử bị xem là bất công và đen đúa của chính quyền Hải Phòng.
Bối cảnh trên
cũng diễn ra trong khung cảnh dòng chảy đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ chớm
được đối lưu, cũng như vấn đề của những người như Đoàn Văn Vươn được một số tổ
chức nhân quyền quốc tế đánh giá như một “vụ án chính trị”, là một trong những
tâm điểm then chốt cần được lưu tâm trong bối cảnh Việt Nam đang thiết tha ứng
cử vào Hội đồng nhân quyền của Liên hiệp quốc.
Nhưng ở một
chiều kích khác, lại có luồng ý kiến từ “lề dân” của mạng truyền thông xã hội
trong nước cho rằng án tù 5 năm đối với Đoàn Văn Vươn là một bước đi mềm mỏng
và thỏa hiệp của nhà nước trước những “cơ hội đối ngoại” mới, thay cho việc ông
Vươn phải chịu mức án nặng gấp đôi - có thể lên đến 10-12 năm - nếu bị đưa ra
xét xử vào thời gian nửa cuối năm 2012, cùng thời gian với sự đình hoãn đối
thoại nhân quyền Việt - Mỹ.
TPP hay khúc
quanh Mỹ - Việt?
Vào những ngày
này, liều lượng chỉ trích “các thế lực thù địch” trên những báo đảng như Nhân
dân và Quân đội nhân dân cũng bất ngờ “suy thoái” đến phân nửa hoặc còn thấp
hơn nữa.
“Mấy tổ chức
phản động như Việt Tân, đảng Dân chủ Việt Nam… cùng mấy cơ quan truyền thông
VOA, BBC, RFA, RFI… và một số blog của các đối tượng chống đối” - như cách xác
quyết đầy mạnh mẽ thường thấy trong nhiều bài xã luận trước đây trên tờ Nhân
dân, đã không còn được “phúc thẩm” trong bối cảnh gia đình Đoàn Văn Vươn đang
bày tỏ ý nguyện quyết liệt kháng cáo đối với bản án sơ thẩm dành cho những
người thân của họ.
Những sự kiện
cấp tập đan xen về kinh tế, ngoại giao, tuyên giáo và cả chính trị như trên
cũng khiến người ta hồi tưởng một giai đoạn tiền lệ gần tương tự ở Miến Điện
vào cuối năm 2010 và trong nguyên năm 2011.
Sau khi phóng
thích nữ lãnh tụ đảng đối lập và cũng là Nobel hòa bình Aung San Suu Kyi, tổng
thống thoát thân từ chế độ quân phiệt là Thein Sein đã tiến hành một loạt cuộc đàm
phán và đối thoại về nhân quyền với người Mỹ. Kết quả của các cuộc hội đàm này,
cùng với chính sách cởi mở đến khó tin sau đó của ông Thein Sein về tự do ngôn
luận và tự do báo chí, bãi bỏ đạo luật về ngăn chặn bắt bớ giới bất đồng chính
kiến và còn cho người dân có quyền biểu tình, tôn trọng nhân quyền và chia sẻ
quyền lực với phong trào dân chủ và nhân dân…, đã nâng Miến Điện trở thành điểm
thăm viếng đầu tiên của Tổng thống tái đắc cử Barack Obama.
6 tỷ USD mà Miến
Điện được xóa nợ cũng tiếp dẫn. Câu lạc bộ Paris, Nhật Bản, Na Uy và những tổ
chức tài chính như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế đều tỏ ra hào phóng
hơn rất nhiều so với thái độ hoài nghi trước đó không bao lâu.
Xuất khẩu, đầu
tư nước ngoài và khả năng gia nhập TPP vì thế cũng có cơ may được cải thiện hơn
hẳn đối với trường hợp của Miến Điện, nếu liên tưởng với một ước nguyện tương
tự của Việt Nam trong bối cảnh quốc gia hình chữ S đang phải trải qua ít nhất
hai năm của một chữ S khác - Suy thoái kinh tế.
Ẩn số còn lại
trong vài năm tới là chữ S ấy sẽ có thể biến thái hay biến dạng như thế nào -
theo một đường tuyến tính trên tinh thần hòa giải tự thú hay vẫn chỉ là những
khúc quanh mà sẽ đẩy tất cả xuống hố?
Còn hiện thời, chữ S dân tộc vẫn đang phải chịu nhiều áp lực hầu như chưa có
điểm dừng từ chủ thể “ngàn năm Bắc thuộc” nhưng luôn bị che mờ bởi khách thể
“mười sáu chữ vàng”.
Bài viết thể hiện quan điểm và
cách hành văn của tác giả, cây bút Phạm Chí Dũng sống tại TP HCM.
No comments:
Post a Comment