Lê
Trung Tĩnh
Gửi đến BBC từ Paris
Cập nhật: 10:11 GMT - thứ tư, 4 tháng 6,
2014
Tình
hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc cho thấy
các phản ứng trái ngược của các lãnh đạo Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong các cuộc trả lời các
hãng thông tấn Hoa Kỳ hay tại Philippines đã nhiều lần nhắc đến khả năng thậm
chí khẳng định việc sử dụng biện pháp pháp lý, hay nói cách khác là kiện Trung
Quốc ra tòa.
Trong khi đó có người như ông Phùng Quang Thanh lại
dè dặt hơn, cho rằng kiện chỉ là giải pháp cuối cùng và bất khả dĩ. Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng Việt Nam cân nhắc giữa việc bảo vệ chủ quyền và giữ quan hệ tốt với
Trung Quốc, mà ông cho là đang phát triển tốt đẹp.
Mặt khác, có lãnh đạo vẫn im hơi lặng tiếng như
không có việc gì xảy ra.
Đã
rất cố gắng
Thông tin cũng cho biết có nhiều hy vọng từ phía Việt
Nam đối với việc đàm phán để giải quyết vấn đề. Từ khi khủng hoảng nổ ra vào đầu
tháng 5/2014, có gần 30 cố gắng đàm phán trao đổi từ phía Việt Nam từ cấp
chuyên gia đến lãnh đạo cao nhất, tất cả đều không thành công.
Kiên trì đàm phán với Trung Quốc để giải quyết vấn đề
trên Biển Đông là phương châm chủ đạo của lãnh đạo Việt Nam từ nhiều năm nay.
Thực tế cho thấy cách tiếp cận này đã hoàn toàn thất bại, góp phần dẫn đến sự vụ
giàn khoan Hải Dương 981, không ngăn được nếu không nói là còn cổ võ thêm tham
vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Trước tình thế hiện nay, khi Trung Quốc đang dùng
giàn khoan, máy bay và tàu chiến xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam,
cách tiếp cận kiên trì đàm phán càng không hợp lý.
Trong tương quan chỉ giữa Việt Nam và Trung Quốc, nó
đặt Việt Nam vào thế yếu, và có xu hướng nhượng bộ nhiều hơn để đạt được sự giảm
nhiệt từ phía Trung Quốc.
Trong việc thể hiện ra bên ngoài, kiên trì đàm phán
với nước đang xâm lấn cũng gửi một thông điệp rất mơ hồ đến thế giới về cách phản
ứng trước mắt cũng như lựa chọn chiến lược lâu dài của Việt Nam đối với Trung
Quốc. Đây là một điều có hại để tranh thủ ủng hộ của thế giới.
Mặt khác, Trung Quốc đã từ nhiều chục năm nay cố gắng
và tính toán xác lập việc xâm phạm chủ quyền và quyền chủ quyền trên toàn Biển
Đông. Những năm gần đây tham vọng này càng lộ rõ: cắt cáp tàu Bình Minh 2,
chính thức đưa đường lưỡi bò vào tuyên bố phản đối Tuyên bố chung Việt Nam –
Malaysia, in đường lưỡi bò trên hộ chiếu...
Do đó hy vọng Trung Quốc từ bỏ tham vọng có tính
toán từ nhiều năm của họ bằng cách đàm phán chỉ là một ảo tưởng cần nhanh chóng
dứt bỏ.
Kết quả tốt nhất của đàm phán khi Trung Quốc đang
xâm lấn Viêt Nam chỉ có thể là giảm bớt chút ít sự xâm lấn của Trung Quốc.
Ví dụ Trung Quốc cũng vẫn để giàn khoan ở đó nhưng sẽ
hứa hẹn đàm phán về COC tích cực hơn. Thậm chí khi Trung Quốc có rút giàn khoan
Hải Dương 981 đi thì họ vẫn có thể tuyên bố là họ đã thực thi quyền chủ quyền
trên vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam mà họ cho là của họ.
Tuy nhiên để đàm phán ‘’được’’ sự giảm bớt xâm lấn
này, Việt Nam có thể phải đánh đổi bằng những nhượng bộ kinh tế, chính trị, tức
là chấp nhận một sự xâm lấn và lệ thuộc nhiều mặt hơn trước đây.
Một ví dụ cụ thể là Trung Quốc có thể áp lực để Việt
Nam đồng ý cho họ khai thác chung trong các vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam như
vùng Tư Chính, Nam Côn Sơn.
Do đó, kiên trì đàm phán là một sự đáng tiếc, tương
đồng với đầu hàng và có thể sẽ được nói giảm bằng những từ ngữ ca ngợi sự thắng
lợi, hoan hô tình hữu nghị giữa hai nước.
Ngậm
bồ hòn làm ngọt?
Thật ra Trung Quốc cũng đã và đang tấn công Việt Nam
trên biển.
Dùng tàu để đâm, dùng vòi rồng phun vào tàu và kiểm
ngư Việt Nam đều là những cách thức gây phá hủy và có thể sát thương. Tất cả đều
dưới sự yểm trợ của máy bay và tàu chiến.
Một điều có vẻ ngịch lý nhưng lại là sự thật, việc
kiên trì đàm phán lại tiềm ẩn nguy cơ gây bùng nổ chiến tranh. Thứ nhất, vì dầu
gì thì trong thời gian đàm phán, nhà nước Việt Nam vẫn phải duy trì việc phản đối
trên thực địa bằng các tàu kiểm ngư.
Các va chạm và căng thẳng kéo dài sẽ nóng dần lên và
có thể bùng nổ thành xung đột vũ trang trên biển. Thứ nhì, nếu nhận thấy Việt
Nam không có lựa chọn nào khác là đeo bám đàm phán, Trung Quốc sẽ không ngần ngại
tấn công cục bộ để gây áp lực và sợ hãi.
Khi đó Việt Nam có hai khả năng phản ứng: hoặc là ngậm
bồ hòn làm ngọt, tức đầu hàng; hoặc là phản công, tức chiến tranh xảy ra.
Chiến tranh không giải quyết được mâu thuẫn. Trong lịch
sử cận đại, Việt Nam và Trung Quốc đã qua bao nhiêu cuộc chiến 1974, 1979, 1988
; mâu thuẫn chỉ chất chồng lên thêm, dầu được che đậy bằng nhiều mỹ từ.
Các cuộc chiến, tuy đầy đau đớn và mất mát, nhưng lại
không mang đến cho những quốc gia tham dự một bài học kinh nghiệm thật sự nào
tích cực ngay sau đó.
Vì nhiều lý do, các bên tham chiến dù thắng hay thua
cũng đều có nhu cầu phải méo mó lịch sử liên quan. Trong từng nước, các nhà
lãnh đạo sau cuộc chiến lại tiếp tục được tụng ca bằng những hình ảnh anh hùng
hay bi tráng.
Ít nhất vài chục năm sau đó. người ta mới tỉnh ngộ,
gạt ra bên cạnh những luận điệu thời chiến dễ vin vào, để quay nhìn lại sự vụ với
một sự bình tĩnh thực sự. Trong niềm hy vọng mong manh không có cuộc chiến nào
sớm nổ ra.
Nếu đầu hàng là một vết nhơ lịch sử thì chiến tranh
là sự che lấp trong thời gian dài lịch sử và sự thật dưới lớp đất mang tên số
năm của cuôc chiến đó.
Do đó, trừ khi vì mục đích phòng vệ, chiến tranh là
điều nên tránh.
Thật ra sự phòng vệ hiệu quả và thông minh là một mặt
luôn chuẩn bị cho chiến tranh nhưng mặt khác giữ chiến tranh ở cách xa mình nhất.
Kiện
Trung Quốc ra tòa
Việc kiện Trung Quốc ra tòa cho Việt Nam khả năng giải
quyết vấn đề Hải Dương 981 và tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa một cách
công bằng và hiệu quả nhất.
Việt Nam cần phải nhanh chóng kiện việc Trung Quốc
triển khai giàn khoan Hải Dương 981 tại một tòa trọng tài thành lập theo cơ chế
giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982
(UNCLOS 1982).
Song song đó, Việt Nam nên yêu cầu chính thức Trung
Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra giải quyết tại Toà án Công lý Quốc tế.
Việc kiện Trung Quốc ra tòa là một cách giữ chiến
tranh ở xa mình nhất. Vì sao khi mỗi lần Việt Nam nói về khả năng sử dụng biện
pháp pháp lý thì Trung Quốc lại tức giận?
Chắc chắn không phải vì sợ sứt mẻ tình hữu nghị giữa
hai nước, mà vì khi đưa sự vụ ra tòa, dưới ánh sáng của công lý và dư luận quốc
tế, Trung Quốc không thể ngang ngược dùng vũ lực để uy hiếp những kiểm ngư Việt
Nam, không thể hung hăng đe dọa chiến tranh như khi chỉ có hai nước với nhau và
Việt Nam chỉ biết kiên trì đàm phán.
Kiện Trung Quốc ra tòa đặt người Việt Nam trước một ứng
xử mới với Trung Quốc. Việc kiện diễn ra trong thời gian dài sẽ đặt lại mối
quan hệ giữa hai nước, các khẩu hiệu 16 vàng 4 tốt sẽ không có cơ hội tồn tại,
và tất cả đều diễn ra trong hòa bình.
Khi chọn một vị thế rõ ràng hơn với Trung Quốc, Việt
Nam sẽ có được sự hậu thuẫn lớn hơn của thế giới tự do.
Việt Nam có cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng về kinh tế
chính trị của Trung Quốc, điều mà việc đeo bám đàm phán hay sự đứt gãy của chiến
tranh không thể mang lại.
Trước tòa, Trung Quốc và Việt Nam đều phải trưng ra
những bằng chứng lịch sử, pháp lý chính xác nhất.
Khi câu chuyện lịch sử được nhắc đến một cách duy
lý, rõ ràng, vì chủ quyền đất nước, vì những vấn đề hệ trọng của dân tộc, cần sự
thông cảm của nhiều người, thì nó giúp người Việt vừa hiểu biết về lịch sử, vừa
hiểu nhau và dễ hòa giải với nhau hơn.
Quan trọng hơn, việc kiện giúp người Việt phần nào
thoát ra khỏi chính mình và tiến đến với những giá trị phổ quát của nhân loại
như 'công bằng', 'hòa bình', 'duy lý’.
Khi đấu tranh vì công lý cho đất nước, người Việt
cũng hiểu và yêu cầu công lý cho chính họ. Điều đó sẽ tạo nên sức mạnh thật sự
cho Việt Nam.
Trên tinh thần đó thì kiện Trung Quốc ra tòa là lựa
chọn thích hợp nhất của Việt Nam so với việc kiên trì đàm phán, một cách tiếp cận
vừa quá gần với đầu hàng, vừa tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh.
Do đó kiện Trung Quốc không nên là lựa chọn cuối
cùng, mà là một việc cần làm sớm nhất có thể.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và cách
hành văn của tác giả Lê Trung Tĩnh từ Paris, Pháp.Tác giả cảm ơn ông
Dương Danh Huy, ông Phạm Thu Xuân và ông Lê Vĩnh Trương vì những đóng góp giá
trị cho bài viết. Diễn đàn BBC luôn mong muốn nhận được các quan điểm
khác nhau, gồm cả ý kiến phản biện lại các bài viết chúng tôi đã
đăng tải.
No comments:
Post a Comment