2-6-2014
Trong hồ sơ Hoàng Sa, khó khăn nhất của VN hôm nay
là chứng minh được quốc gia có tên gọi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã
« kế thừa » danh nghĩa chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của thực thế Việt
Nam Cộng Hòa.
Bà Monique Chemillier-Gendreau[i] dựa lên thuyết « liên tục quốc gia » để
cho rằng VNDCCH có thể kế thừa VNCH để có quyền chủ quyền tại HS và TS :
Le Vietnam aujourd’hui unifié (par la victoire du
Nord) doit choisir à qui il succède sur ce point. La logique territoriale
renforce une cuccession aux droits et actions du Sud-Vietman, seul compétent
d’une point de vue géographique.
Tạm dịch : Nước
Việt Nam thống nhất hôm nay (do chiến thắng của miền Bắc) phải lựa chọn bên nào
để kế thừa (danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa). Lôgíc về mặt lãnh thổ củng cố sự kế
thừa về các quyền và những hành vi của Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền
trên quan điểm địa lý.
Chủ quyền của VN tại HS và TS liên tục từ nhiều thế
kỷ, từ chúa Nguyễn chuyển sang triều Tây Sơn, sang triều đại nhà Nguyễn, rồi đến
nhà nước bảo hộ Pháp. Năm 1954, quốc gia VN bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ
tại vĩ tuyến 17, hai quần đảo HS và TS do VNCH quản lý. Nhà nước VNCH, tiếp nối
nhà nước bảo hộ Pháp, quản lý liên tục và khai thác HS và TS.
Tức là lập luận của bà học giả M. Chemiller-Gendreau
« Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý »
là phù hợp với thực tế lịch sử và pháp lý.
Một câu hỏi (chính đáng) đã đặt ra, từ những lần bàn
luận trên Facebook : anh đã giết chết người ta thì anh có tư cách gì để kế
thừa người ta ?
Từ « giết chết » sử dụng ở đây có thể
không phù hợp, nhưng thực tế lịch sử giữa hai thực thể VNCH và VNDCCH, từ năm
1959 đến 1975, đã thể hiện trong chiều hướng như vậy.
Thủ tục « kế thừa » có thể thể hiện (một
cách đơn giản như bà học giả M. Chemiller-Gendreau đề nghị) trong một hoàn cảnh
lịch sử thế này hay không ?
Nội
dung Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 của ông Hồ Chí Minh :
Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới,
đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với
Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi
đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Tuyên bố này, trên quan điểm pháp lý, cắt đứt mọi
quan hệ giữa nhà nước VNDCCH và nhà nước bảo hộ Pháp. Nhà nước VNDCCH là chính
phủ của một Việt Nam mới (không quan hệ gì với nhà nước vương quyền cũng như
các nhà nước đã từng hiện hữu trên đất nước VN, đồng thời hay trước đó.)
Nội
dung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Lê Duẩn :
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã
xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta…
Bản báo cáo này khẳng định nhà nước VNDCCH là chính
phủ của một nước VN mới, đã « xóa bỏ thực dân phong kiến ».
Khi đã « xóa bỏ » thì không có gì còn vướng
mắc. Không hiện hữu vấn đề « kế thừa » giữa mình và cái mình đã xóa bỏ,
mà chỉ có việc « chiếm hữu » (hay chiếm đoạt) mà thôi.
Nội
dung hiến pháp 1959 :
Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây
chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc
cứu nước.
Phía VNDCCH luôn gọi VNCH là « bọn tay
sai », là « giặc », là « ngụy ». « Ngụy » tức là giả.
Khi anh cho rằng bọn đó là « giả », không phải là một thực thể chính
trị, thì làm sao hiện hữu vấn đề kế thừa ? Anh không thể kế thừa một cái
gì đó không có thật (ngụy).
Nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về
nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960 :
Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và
dân chủ trong cả nước…
Nghị quyết khẳng định chính quyền miền Nam (VNCH) là
« bọn tay sai ».
Câu nói hiện nay trên môi những người lãnh đạo VN
(và các học giả VN) : « nhà nước CXHCNVN đã kế thừa danh nghĩa chủ
quyền HS và TS từ nhà nước VNCH », hay nại việc Thủ Tướng Trần Văn Hữu
tuyên bố này kia tại Hội nghị San Francisco năm 1951 nghe thật là lố bịch và
chướng tai. Đâu có ai kế thừa cái gọi là « danh nghĩa chủ quyền » từ
« bọn tay sai » bao giờ ? Đã là « tay sai » thì chỉ có
« tuân lệnh chủ » chứ làm sao có vấn đề « danh nghĩa » ở
đây ?
Chiến thắng 30-4-1975, không hề hiện hữu
một buổi lễ bàn giao chính quyền giữa VNCH với VNDCCH hay với CPLT MTGPMN.
Không có bàn giao quyền lực thì làm sao có kế thừa ?
Theo ý kiến của bà học giả M. Chemiller-Gendreau,
sau khi hiệp thuơng thống nhất đất nước 1976, nước CHXHCNVN có thể « kế thừa »
VNCH để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS.
Nhưng với một thực tế lịch sử và pháp lý như vậy, ta
có thể thuyết phục được ai ? Chưa chắc được với một người dân thường huống
chi trước những Thẩm phán giàu kinh nghiệm trước một Tòa án, hay trước những học
giả dư tài hùng biện của TQ.
Một số học
giả VN biện luận rằng « theo luật quốc tế, chủ quyền lãnh thổ thì
thuộc về quốc gia » và chủ trương có hai quốc gia VNCH và VNDCCH
trong thời kỳ 1954-1975. Mục đích nhằm chứng minh CHXNCHVN đã kế thừa danh
nghĩa chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN.
Lập luận này đã sai từ những điều rất cơ bản :
1/ Không có « luật quốc tế » nào (còn hiệu
lực) qui định « chủ quyền lãnh thổ thuộc về quốc gia » hết cả. Lý
thuyết của các học giả này là lý thuyết « territoire-objet », hiện hữu
ở thời kỳ phong kiến, lãnh thổ thuộc về vua chúa. Quan niệm này chấm dứt cùng
lúc với chế độ phong kiến quân quyền. Đây là một quan niệm được các nhà Luật học
đương thời phê bình là « sai lầm »[ii].
2/ Không hề hiện hữu « hai quốc gia »
VNDCCH và VNCH trong thời kỳ 1954-1975.
3/ CHXHCNVN không thể « kế thừa » danh
nghĩa chủ quyền HS (và TS) từ VNCH, thông qua CPLT CHMNVN. Lập luận này dựa
theo thuyết « Reversion » không hề được công pháp quốc tế nhìn nhận
(Xem tranh chấp Erythré và Yemen về chủ quyền
các đảo ở Hồng Hải trong bài ở đây).
Khi « lý thuyết » lập nên từ những lập luận
nền tảng (đã sai), thì lý thuyết đó không có một giá trị hữu dụng nào.
Học giả khác,
(cũng như các học giả nói trên) lập luận trên nền tảng công ước Montévidéo, cho
rằng VNCH là một « quốc gia » :
VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc
gia (state), gồm : (a) một dân số ổn định ; (b) một lãnh thổ rõ rệt ;
(c) có một chính quyền ; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác.
Tác giả không giải thích bằng cách nào danh nghĩa chủ
quyền Hoàng Sa từ « quốc gia » VNCH chuyển sang « quốc
gia » CHXHCNVN hôm nay.
Nếu các thực thể VNDCCH và VNCH là hai « quốc
gia », thì mối tương quan giữa VNDCCH, VNCH và Trung Quốc là tương quan giữa
« quốc gia » với « quốc gia ». TQ chiếm HS từ tay
VNCH, được sự « im lặng đồng tình » của quốc gia VNDCCH vào tháng
giêng năm 1974, cũng như được sự « đồng thuận » của « quốc
gia » này trong quá khứ thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng
(cùng với nhiều hành vi mặc định khác).
Quí vị lập luận làm sao để thuyết phục mọi người là
nước CHXHCNVN hôm nay thụ đắc danh nghĩa chủ quyền tại HS từ tay VNCH ? TQ
đã chiếm HS trên tay VNCH chứ đâu phải trên tay CHXHCNVN. Làm sao VNCH có thể
chuyển cho CHXHCNVN cái đã bị mất ?
Nếu quí vị không giải thích được việc này, cũng
không phản biện được lý lẽ của tôi viết ở đây
và ở đây,
thì làm sao có thể phản biện được những lý lẽ của TQ ? Chưa nói phải biện
luận làm sao để thuyết phục các thẩm phán trước một Tòa án (nếu vấn đề tranh chấp
đưa ra tòa án phân xử).
Quí vị tự trói buộc quí vị (và Việt Nam) trong những
lập luận sai trái. Việc này, nếu chỉ đối với cá nhân của quí vị thì không ai
màng đến làm chi. Vấn đề là nó liên hệ đến đất nước và toàn thể quốc dân Việt
Nam.
Công ước Montévidéo năm 1933 thực ra là một công ước
được ký kết giữa các xứ thuộc Châu Mỹ, lâu ngày trở thành « tập
quán » của Luật quốc tế. Nhưng nội dung của nó không đủ để diễn đạt thế
nào là một « quốc gia » sau Thế chiến II cũng như trong khung cảnh
« Toàn cầu hóa » hiện thời.
Đâu phải hễ có lãnh thổ, dân chúng, một chính quyền
và chính quyền này có khả năng giao dịch với các quốc gia thì là « quốc
gia » ?
Trường hợp Palestine, Đài Loan… họ cũng có lãnh thổ,
dân chúng, có chính quyền và chính quyền này có khả năng « giao dịch »
với các nước trên thế giới, sao họ không là « quốc gia » ?
Các tổ chức « ONG », hay các « tập
đoàn kinh tế » hiện nay, họ có tư cách pháp nhân trong « Luật quốc tế »,
có « quan hệ » với các quốc gia, nhưng họ đâu phải là quốc gia ?
Vì thế, Công pháp quốc tế hôm nay bổ túc thêm hai đặc
tính « độc lập – indépendant » và « có chủ quyền –
souveraineté » vào định nghĩa (điều kiện thành lập) « Quốc gia »
theo công ước Montévidéo.
Hai thực thể VNDCCH và VNCH được khai sinh theo Hiệp
định Genève 1954 và hiệp định này được quốc tế công nhận (và bảo trợ).
Trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia
theo hiệp định Genève thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang
tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường
ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay
lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận VN là nước độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất (được tái xác nhận theo Hiệp định
Paris năm 1973). Điều này thể hiện lên thực tế.
Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam.
Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN
công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì
không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Quí vị nói rằng VNDCCH và VNCH là « hai quốc
gia độc lập, có chủ quyền ». Vậy quí vị thử đưa bằng chứng cho biết quốc
gia nào (trên thế giới này) đã cùng lúc công nhận hai quốc gia VNCH và
VNDCCH ?
Tôi có viết thư
gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, khi thấy một số viên chức VN bị ảnh hưởng bởi
lập luận của quí vị, nội dung đại khái :
Trên tinh thần một nước VN « độc lập, có chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ » của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ
các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm
tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản
thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị
pháp lý ràng buộc.
Như thế, không cần phải bóp méo lịch sử, không cần
phải biện luận bằng những lý thuyết không còn hiệu lực (như lý thuyết về quan hệ
giữa « quốc gia và lãnh thổ » hoặc lý thuyết « đáo hoàn –
reversion »), để phản biện công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng cũng như chứng
minh CHXHCNVN thụ đắc danh nghĩa chủ quyền HS.
Chỉ cần nhìn nhận một thực tế lịch sử (đã bị chối bỏ
từ nhiều thập niên nay). Đó là nhìn nhận hiệu lực của các hiệp định Genève 1954
và Hiệp định Paris 1973. Công hàm 1958 (cùng với các hành vi của VNDCCH có hiệu
lực tương tự) trở nên không có hiệu lực.
Vấn đề còn lại chỉ là làm thế nào để « kế thừa »
danh nghĩa của VNCH.
Nhiều người có ý kiến : chỉ cần đổi tên nước, đổi
quốc kỳ, quốc ca… để trở thành VNCH thì mọi việc đều ổn thỏa.
Theo tôi thì chưa chắc. Những điều đã viết ở trên,
khi anh gọi người ta là « ngụy », là « giặc », là « bọn
tay sai »… thì anh làm sao kế thừa ?
Bà Joële Nguyên Duy-Tân qua bài « La
représentation du VietNam dans les institutions spécialisées »[iii] có đặt vấn đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement
l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle
succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch : VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự
hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một thực
thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?
Mặt khác, một câu hỏi đã đặt ở trên : anh đã giết
chết người ta thì anh có tư cách gì để kế thừa người ta ?
Vì thế, việc đổi tên nước, đổi cờ quạt này kia… là
không thuyết phục.
Tôi đã đề nghị giải pháp « kế thừa » thông
qua chính sách « hòa giải dân tộc » sau đây. Đề nghị này đã có từ hơn
10 năm nay. Xem ra sau gần 4 thập niên thống nhất đất nước, việc kế thừa vẫn
chưa muộn, nếu lãnh đạo CSVN muốn làm việc này.
Tức là, để trả lời một câu hỏi nhức nhối, lẽ thường
anh không thể « giết chết » người ta rồi « kế thừa » người
ta được. Nhưng trong phạm trù « quốc gia », việc này có thể thực hiện,
nếu người lãnh đạo có can đảm chính trị, (như đã thể hiện ở nội chiến Nam, Bắc
Mỹ).
Đó là phải « hòa giải dân tộc ».
Biện pháp là :
Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ
: Cộng Hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những
gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử
tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân ; đoạn tuyệt với quá
khứ sai lầm của VNDCCH.
Thể thức này nhằm đoạn tuyệt với di sản của VNDCCH,
tức đoạn tuyệt với công hàm 1958 cùng với những thái độ có thể khiến VN bị vướng
Estoppel hay Acquiescement.
Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một
bộ luật « hòa giải dân tộc », trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự
cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn
nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng « ngụy
» đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công
thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới ; làm luật phục hồi danh dự
(cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải
Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án « xét lại chống đảng » v.v… Nếu những
người này đã mất thì đề bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt
sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân biệc cuộc chiến
1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v…
Vấn đề « đền bồi » ở đây, trước tình hình
đất nước, có thể chỉ là một hình thức nào đó, « tượng trưng » mà
thôi. Để tránh những xáo trộn sâu xa trong xã hội.
Thể thức này nhằm « kế thừa » danh nghĩa của
VNCH.
Trên căn bản như thế VN đương nhiên có chủ quyền tại
HS và TS, như VNCH, từ đó mới có cơ sở giải quyết các tranh chấp bằng một trọng
tài quốc tế, phân định hải phận biển Đông với các nước khác.
Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối
dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một
lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và hải phận của tổ tiên để lại.
[i] Monique Chemillier-Gendreau,
« La Souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys », nxb
Harmattan, ISBN 2-7384-4061-4, tr 123.
[ii] Nguyen Quoc Dinh, Patrick
Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit International Public,
L.G.D.J, 8e Edition, tr 456.
[iii] Nguyen Duy Tan Joële. La
représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire
français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi :
10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
Publié par Nhan
Tuan Truong à 01:39
No comments:
Post a Comment