Tiến
sĩ Trần Công Trục
13/06/14 06:15
Bình
luận của Viet Studies :
Phản biện tương đối nghiêm túc những luận cứ trong cáo trạng của
Trung Quốc, song vẫn còn quá sơ sài.. Theo ông Trục thì "Các
tài liệu khác như Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…thực chất
đây là những tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu, học tập".
Trong một quốc gia có tự do ngôn luận, giáo dục không bị "chỉ đạo" từ
"trên".. thì lý luận này có thể chấp nhận được (nhưng
"tham khảo" có nghĩa là ai muốn biết thì mở ra xem, phải không?),
nhưng trong một quốc gia mà chính nhà nước soạn, rồi in, rồi phân phát những
tài liệu này thì khó mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước (hay
lại đổ lỗi cho "cậu đánh máy"?). Thử hỏi, nếu có một cuốn sách
giáo khoa nào viết: "Từ năm 1954 đến năm 1975, Việt Nam được chia thành
hai quốc gia độc lập" thì các "cơ quan chức năng có thu hồi sách ấy
mà đốt ngay không?
----------------------
(GDVN)-Sự kiện giàn khoan Hải dương 981 “tác nghiệp
tại Nam Hải” đây là một bước tiến mới nguy hiểm, với những toan tính rất tinh
vi của Trung Quốc...
Những
bước tiến đầy mưu lược?
Ngày 3/5, trên trang web của Cục Hải sự Trung Quốc đã đưa cảnh báo hàng hải số 14033 về việc giàn khoan Hải dương 981 (giàn khoan 981) “tác nghiệp tại Nam Hải”. Cảnh báo này cho biết, từ ngày 2/5 đến 15/8, giàn khoan 981 sẽ hoạt động tại tọa độ 15029’N/1110 12’E. Cấm tất cả các loại phương tiện không được xâm nhập vào khu vực 981 hoạt động trong phạm vi bán kính 1 hải lý.
Ngày 3/5, trên trang web của Cục Hải sự Trung Quốc đã đưa cảnh báo hàng hải số 14033 về việc giàn khoan Hải dương 981 (giàn khoan 981) “tác nghiệp tại Nam Hải”. Cảnh báo này cho biết, từ ngày 2/5 đến 15/8, giàn khoan 981 sẽ hoạt động tại tọa độ 15029’N/1110 12’E. Cấm tất cả các loại phương tiện không được xâm nhập vào khu vực 981 hoạt động trong phạm vi bán kính 1 hải lý.
Theo dõi tình hình có liên quan đến sự kiện này và
qua ý kiến đánh giá của dư luận, thì có thể thấy rằng đây là một bước tiến mới
nguy hiểm, với nhưng toan tính rất tinh vi của Trung Quốc; là diễn biến tất yếu
sau những gì đã xẩy ra trong thời gian gần đây. Bởi vì:
1. Về thời điểm
1. Về thời điểm
Đây là lúc trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.
Mỹ cùng các nước châu Âu và Nga đang tập trung vào vấn đề Ukraine. Đây cũng là
một vấn đề nóng và hết sức nhạy cảm khi cả hai bên đều có những “đòn” cân não
và cả thế giới đều nín thở để chờ những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Rõ ràng, lúc
này Biển Đông và Biển Hoa Đông không còn là những điểm nóng số một khiến Mỹ và
Nga… phải quan tâm hàng đầu nữa.
Thậm chí, sự khẳng định vai trò của khu vực châu Á –
Thái Bình Dương đối với Mỹ của Tổng thống Mỹ trong chuyến công du 4 nước châu Á
mới đây cũng mang tính hình thức nhiều hơn là thực chất…
Trong bối cảnh hiện nay, trong sự đối chọi tại
Ukraine thì Nga và Trung Quốc sẽ có những mối quan hệ đặc biệt hơn trong “thế cờ”
địa-chính trị quốc tế…
Nhận rõ bản chất của việc Hoa Kỳ đưa ra khẩu hiệu
“chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương” chỉ là khẩu hiệu và đặc
biệt, sau một thời gian tiến hành những hoạt động lúc cứng, lúc mềm trên nhiều
lĩnh vực khác nhau để thử phản ứng của các nước có liên quan trực tiếp hay gián
tiếp trong khu vực và quốc tế gần xa, Trung Quốc đã có thể yên tâm triển khai
bước tiến mới của mình…
Mặt khác,Trung Quốc đang phải đối phó với nhiều vấn
đề chính trị, xã hội khá phức tạp, bất ổn, như Tân Cương, Tây Tạng …, vì thế,
việc họ đưa giàn khoan ra Biển Đông cũng có thể là giải pháp chuyển mâu thuẫn nội
bộ ra bên ngoài trong tình hình hiện nay.
Rõ ràng là họ đã chọn một thời điểm thuận lợi nhất để
hành động bằng phương thức có thể gọi là một cuộc “xâm lược kinh tế” mà mục
tiêu trước mắt là chiếm đoạt, vơ vét tài nguyên nằm trong các vùng biển
và thềm lục địa hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.
2. Về vị trí đặt giàn khoan
Vị trí giàn khoan 981 được đặt trái phép.
Qua quan sát bản đồ thì vị trí này nằm cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 119 hải lý, cách đảo Tri Tôn mà họ đang chiếm 18 hải lý, cách ranh giời ngoài Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo đúng quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 là 80 hải lý.
2. Về vị trí đặt giàn khoan
Vị trí giàn khoan 981 được đặt trái phép.
Qua quan sát bản đồ thì vị trí này nằm cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 119 hải lý, cách đảo Tri Tôn mà họ đang chiếm 18 hải lý, cách ranh giời ngoài Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo đúng quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 là 80 hải lý.
Tuy đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nhưng cũng phải thấy rằng đây cũng là vị
trí khá nhạy cảm mà Trung Quốc đã cố tình lựa chọn để thực hiện chiến thuật
“bắn một mũi tên trúng hai đích”: một là tiếp tục khẳng định chủ quyền của họ
đối với “Tây Sa”, thực hiện ý đồ cố tình giải thích và áp dung sai
Công ước Luật Biển 1982 trong việc mở rộng phạm vi các vùng biển và thềm lục địa
dựa vào vị trí của quần đảo này, cũng như các quần đảo khác trong Biển Đông, nhằm
hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”phi lý của họ; hai là, cố tình tạo
ra vùng chồng lấn, biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp để áp đặt
chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” mà mục tiêu trước mắt là tranh
giành việc khai thác nguồn tài nguyên sinh vật và không sinh vật vốn thuộc các
vùng biển và thềm lục địa của các quốc gia ở chung quanh Biển Đông theo quy định
của Công ước Luật Biển 1982.
Để hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc ngụy biện rằng vị trí đặt giàn khoan cách đảo “Trung Kiến”(đảo Tri Tôn) 18 hải lý, hoàn toàn năm trong lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo “Tây Sa”, bởi vì Trung Quốc hoàn toàn có chủ quyền dối với“Tây Sa”.
Để hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc ngụy biện rằng vị trí đặt giàn khoan cách đảo “Trung Kiến”(đảo Tri Tôn) 18 hải lý, hoàn toàn năm trong lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo “Tây Sa”, bởi vì Trung Quốc hoàn toàn có chủ quyền dối với“Tây Sa”.
Vì vậy, nếu chúng ta không phân tích kỹ, không dựa
trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 để phân biệt rạch
ròi bản chất của “vị trí nhạy cảm” này thì có thể rơi vào bẫy pháp lý của họ.
Như mọi người đã biết, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm hoàn toàn từ năm 1974 trở về trước và luôn luôn khẳng định họ có “chủ quyên lịch sử” đối với quần đảo này, không cần phải bàn cãi.
Như mọi người đã biết, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm hoàn toàn từ năm 1974 trở về trước và luôn luôn khẳng định họ có “chủ quyên lịch sử” đối với quần đảo này, không cần phải bàn cãi.
Về vấn đề này quan điểm của Việt nam cũng đã quá rõ
ràng: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực
thi chủ quyền đối với quần đảo này từ khi còn là đất vô chủ, chí ít là từ thế kỷ
thứ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, rõ ràng, liên tục
và hòa bình, phù hợp với nguyên tắc của Luật pháp và thực tiễn quốc tế đã và
đang có hiệu lực trong việc giải quyết tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thô giữa
các quốc gia.Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để chứng
minh và bảo vệ chủ quyền của mình đối với quần đảo này.
Tuy nhiên, liên quan đế sự kiện này, có lẽ trọng tâm là nên tập trung phân tích xem vị trí mà giàn khoan HD 891 của TQ đang hoạt động nằm ở vùng biển nào: lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là “Tây Sa” hay nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam?
Tuy nhiên, liên quan đế sự kiện này, có lẽ trọng tâm là nên tập trung phân tích xem vị trí mà giàn khoan HD 891 của TQ đang hoạt động nằm ở vùng biển nào: lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là “Tây Sa” hay nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam?
Trước hết, dễ dàng nhận ra rằng, vị trí này
không phải nằm trong lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa, thậm chí là của đảo
Tri Tôn, vì nó ở cách Tri Tôn 18 hải lý. Vậy thì chỉ có thể là nó đã nằm trong
vùng đặc quyền về kinh tế của quần đảo này (vì vùng tiếp giáp lãnh hải xét về
phạm vi không gian, vẫn là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế). Vấn đề là
quần đảo này có hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Công ước Luật Biển 1982
để có thể cho phép quốc gia có chủ quyền mở rộng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của quần đảo này hay không?
Như mọi người đều biết, quần đảo này bao gồm các đảo,
đá, bãi cạn, rạn san hô…rất nhỏ bé, nằm trong khu vực có khi hậu khắc
nghiệt, không thích hợp cho đời sống của con người và đương nhiên không thể có
đời sống kinh tế riêng, mặc dù sau khi xâm chiếm bằng vũ lực, Trung Quốc đang cố
tìm cách tạo ra diện mạo đó. Hơn nữa, quần đảo này không phải là quốc gia quần
đảo.
Vì thế, việc vạch ra hệ thông đường cơ sở để từ đó
xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của quần đảo này là hoàn toàn
khác với quốc gia quần đảo. Vì những lý do đó, có thể khẳng định rằng quần đảo
này không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của Công
ước của LHQ về Luật Biển 1982; có chăng thì từng đảo nổi theo đung quy định của
Điều 121 của Công ước Luật Biển 1982 chỉ có thể có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý
mà thôi.
Việc Trung Quốc đã vạch một đường cơ sở bao trọn quần
đảo mà họ gọi là “Tây Sa” để từ đó tạo ra vùng chồng lấn với vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam là sai với quy định của Công ước quốc tế về Luật Biển năm
1982. Do đó, có thể khẳng định rằng vị trí của dàn khoan này hoàn toàn nằm sâu
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến
quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép và đang cố tình giải
thích và áp dung sai Công ước Luật Biển năm 1982 để biện minh cho yêu sách vô
lý, đầy tham vọng của mình.
3.
Về chủ trương, chính sách biển của Trung Quốc
Trung Quốc không bao giờ từ bỏ mưu đồ độc chiếm Biển Đông nằm trong chiến lược vươn lên trở thành siêu cường quốc tế. Trước hết họ tìm mọi cách hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”. Lần này, hành động của họ thể hiện quyết tâm mạnh mẽ hơn nhiều. Cách đi của họ rất bài bản ,có sự kết hợp nhiều yếu tố: đối nội, đối ngoại, chính trị, kinh tế…
Đáng lưu ý là họ đang sử dụng các biện pháp mang tính dân sự, kinh tế, chứ không phải là các hành động quân sự như trước đây. Đó mới là điều nguy hiểm. Cách làm đó của Trung Quốc khiến cho dư luận thế giới lầm tưởng rằng họ đã “xuống thang” và từ đó mà lơ là mất cảnh giác trước những toan tinh tinh vi, mưu mẹo của họ.
Họ sẽ tiếp tục bằng những hoạt động tương tự về kinh tế và dân sự như kéo giàn khoan , thậm chí tổ chức thêm việc đấu thầu khai thác dầu tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ cũng có thể sẽ có những hoạt động nghiên cứu khoa học, đi sâu vào vùng biển của các nước trong khu vực để biến khu vực không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp.Họ có thể sẽ dùng các biện pháp như ra các lệnh cấm để có tạo ra cho mình được quyền (bất hợp pháp) để kiểm tra, kiểm soát những tàu bè, phương tiện bay, những hoạt động kinh tế của các nước khác, hoạt động hàng hải, hang không quốc tế qua vùng Biển Đông….
Trung Quốc thực hiện những điều này có nghĩa là họ đã bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư luận, dùng thế của mình để áp đảo các nước khác. Rõ ràng khi thực hiện các hành động phi pháp của mình, Trung Quốc đã “vứt” Công ước Luật Biển năm 1982 vào sọt rác. Và Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), mà Công đồng ASEAN đang kỳ vọng, cũng sẽ khó có thể thành công và nếu có, cũng chẳng có giá trị gì khi nó chỉ mang tính chất là một giải pháp tình thế, tạm thời; với Trung Quốc cũng chỉ là một công cụ ngoại giao, là cái cớ để trì hoãn mọi giải pháp thực chất, cơ bản nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi quốc gia có liên quan trong khu vực.
1. Trước tình hình trên, các nước Đông Nam Á có liên quan đến Biển Đông cần nhận định lại về cách hành xử của Trung Quốc để từ đó có tiếng nói chung mạnh mẽ hơn, nếu muốn ngăn chặn được “ con bạch tuộc” khổng lồ này tiếp tục tiến sâu vào những vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp để hút cạn nguồn tài nguyên thiên nhiên; chiếm đoạt, cắt đứt nguồn sống của cả cộng đồng quốc gia, khu vực…
2. Hành động kéo giàn khoan vào vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam là một hành động vi phạm luật pháp một cách trắng trợn. Một trong những việc làm quan trọng của chúng ta lúc này là phải để cho dư luận thế giới hiểu rõ rằng các quyền hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông đến đâu và những hành động của Trung Quốc đã bất hợp pháp như thế nào. Công việc tuyên truyền này cần được đẩy mạnh và tiến hành thường xuyên.
3. Tiếp tục có những phản ứng ngoại giao mạnh mẽ, hiệu quả, trên cơ sở đảm bảo thực hiện chính sách ngoại giao đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực và quốc tế.
Tại cuộc điện đàm với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì,Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh việc Trung Quốc đơn phương đưa giàn khoan HD-981 và một lượng lớn tàu các loại, kể cả tàu quân sự vào hoạt động ở khu vực này là bất hợp pháp, đi ngược lại luật pháp và thông lệ quốc tế…
Trung Quốc không bao giờ từ bỏ mưu đồ độc chiếm Biển Đông nằm trong chiến lược vươn lên trở thành siêu cường quốc tế. Trước hết họ tìm mọi cách hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”. Lần này, hành động của họ thể hiện quyết tâm mạnh mẽ hơn nhiều. Cách đi của họ rất bài bản ,có sự kết hợp nhiều yếu tố: đối nội, đối ngoại, chính trị, kinh tế…
Đáng lưu ý là họ đang sử dụng các biện pháp mang tính dân sự, kinh tế, chứ không phải là các hành động quân sự như trước đây. Đó mới là điều nguy hiểm. Cách làm đó của Trung Quốc khiến cho dư luận thế giới lầm tưởng rằng họ đã “xuống thang” và từ đó mà lơ là mất cảnh giác trước những toan tinh tinh vi, mưu mẹo của họ.
Họ sẽ tiếp tục bằng những hoạt động tương tự về kinh tế và dân sự như kéo giàn khoan , thậm chí tổ chức thêm việc đấu thầu khai thác dầu tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ cũng có thể sẽ có những hoạt động nghiên cứu khoa học, đi sâu vào vùng biển của các nước trong khu vực để biến khu vực không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp.Họ có thể sẽ dùng các biện pháp như ra các lệnh cấm để có tạo ra cho mình được quyền (bất hợp pháp) để kiểm tra, kiểm soát những tàu bè, phương tiện bay, những hoạt động kinh tế của các nước khác, hoạt động hàng hải, hang không quốc tế qua vùng Biển Đông….
Trung Quốc thực hiện những điều này có nghĩa là họ đã bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư luận, dùng thế của mình để áp đảo các nước khác. Rõ ràng khi thực hiện các hành động phi pháp của mình, Trung Quốc đã “vứt” Công ước Luật Biển năm 1982 vào sọt rác. Và Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), mà Công đồng ASEAN đang kỳ vọng, cũng sẽ khó có thể thành công và nếu có, cũng chẳng có giá trị gì khi nó chỉ mang tính chất là một giải pháp tình thế, tạm thời; với Trung Quốc cũng chỉ là một công cụ ngoại giao, là cái cớ để trì hoãn mọi giải pháp thực chất, cơ bản nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi quốc gia có liên quan trong khu vực.
1. Trước tình hình trên, các nước Đông Nam Á có liên quan đến Biển Đông cần nhận định lại về cách hành xử của Trung Quốc để từ đó có tiếng nói chung mạnh mẽ hơn, nếu muốn ngăn chặn được “ con bạch tuộc” khổng lồ này tiếp tục tiến sâu vào những vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp để hút cạn nguồn tài nguyên thiên nhiên; chiếm đoạt, cắt đứt nguồn sống của cả cộng đồng quốc gia, khu vực…
2. Hành động kéo giàn khoan vào vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam là một hành động vi phạm luật pháp một cách trắng trợn. Một trong những việc làm quan trọng của chúng ta lúc này là phải để cho dư luận thế giới hiểu rõ rằng các quyền hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông đến đâu và những hành động của Trung Quốc đã bất hợp pháp như thế nào. Công việc tuyên truyền này cần được đẩy mạnh và tiến hành thường xuyên.
3. Tiếp tục có những phản ứng ngoại giao mạnh mẽ, hiệu quả, trên cơ sở đảm bảo thực hiện chính sách ngoại giao đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực và quốc tế.
Tại cuộc điện đàm với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì,Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh việc Trung Quốc đơn phương đưa giàn khoan HD-981 và một lượng lớn tàu các loại, kể cả tàu quân sự vào hoạt động ở khu vực này là bất hợp pháp, đi ngược lại luật pháp và thông lệ quốc tế…
Phải
làm gì?
Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết
để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Đồng thời, Việt Nam luôn thể
hiện thiện chí, kiên trì giải quyết thỏa đáng bất đồng thông qua đàm phán, đối
thoại và các biện pháp hòa bình khác theo đúng nhận thức chung của Lãnh đạo cấp
cao hai nước, Thỏa thuận về các Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển, phù hợp với các quy định và thực tiễn Luật pháp quốc tế, nhất là
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982, không để vấn đề này tổn hại đến sự
tin cậy chính trị và hợp tác giữa hai bên.
Nội dung của cuộc điện đàm này đã thể hiện rõ ràng lập
trường của Việt Nam trước bước tiến mới này của Trung Quốc. Trong đó, có đề cập
đến việc giải quyết thỏa đáng các bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và các
biện pháp hòa bình khác.
Các biện pháp hòa bình khác đó là gì? Một trong những
biệp pháp hòa bình thông dụng nhất là vai trò của các cơ quan tài phán quốc tế
trong việc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng
Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.
Có lẽ đã đến lúc Việt Nam cần khẩn trương thực hiện
biện pháp này: kiện Trung Quốc lên Tòa án của LHQ về Luật Biển theo đung thủ tục
và cơ chế thích hợp mà Công ước Luật Biển 1982 quy định. Áp dụng thủ tục này là
một sinh hoạt bình thường để xử lý các quan hệ trong một xã hội văn minh,
hiện đại, quốc nội cũng như quốc tế. Nó chỉ có thể củng cố hơn nữa mối quan hệ
hưu nghị giữa các quốc gia láng giềng một các lâu dài , bền vững, dựa trên nền
tảng của nhưng quy định, pháp lý quốc tế đã được loài người dày công xây dựng.
4. Trong điện đàm của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh còn có một nội dung quan trọng nữa, đó là việc Việt Nam sẽ áp dung mọi biên pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
4. Trong điện đàm của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh còn có một nội dung quan trọng nữa, đó là việc Việt Nam sẽ áp dung mọi biên pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Nhìn vào truyền thống lịch sử của dân tộc này trước
những hành vi vi phạm lợi ích quốc gia thì những người lãnh đạo, mỗi một lực
lương, tổ chức, cá nhân người Việt Nam sẽ biết phải làm gì để bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của mình…./.
--------------------------
Phản
bác lý sự ngụy biện về "chủ quyền" của Trung Quốc (TTXVN 13-6-14)
Bình
luận của Viet Studies :
Bài này dường như đã viết trước cáo trạng của TQ
gởi LHQ nên không phản biện nhiều điểm mà TQ đưa ra. (chứng tỏ, một lần nữa,
Việt Nam đã thật sư bất ngờ khi TQ đưa vấn đề ra LHQ và những "bằng chứng"
mới của họ)
No comments:
Post a Comment