Nicholas
Redman
Survival:
Global Politics and Strategy
Biên
dịch: Lê Hoàng Giang | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted on 10/06/2014 by The Observer
Nguồn: Nicholas Redman (2014). “Russia’s Breaking Point”, Survival: Global
Politics and Strategy, Vol. 56, No. 2, pp. 235-244.
Bài
liên quan: Putin bị vây hãm: Liệu có xảy ra một cuộc cách mạng
màu hay không?
“Những sự kiện đang diễn ra ở Ukraine là bi kịch của
cả một đất nước … Mùa Xuân Arab đã lan tới thủ đô của một nước Châu Âu.”
- Mikhail Margelov, chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng
viện Nga[1]
Tại
sao Nga can thiệp vào Ukraine?
Phản ứng mạnh mẽ của Nga trước những sự kiện ở
Ukraine không có gì đáng ngạc nhiên cả. Hai trong số những mỗi quan tâm hàng đầu
trong chính sách đối ngoại của Nga trong thập kỷ trước là củng cố chính quyền
trước sự công kích từ những người dân bất mãn và, từ góc nhìn của Matxcơva, trước
nguy cơ bị can thiệp từ bên ngoài, cũng như cương quyết thiết lập và bảo vệ một
“vùng quyền lợi riêng biệt” (zone of privileged interests) trên khắp khu vực
các nước từng thuộc Liên Xô trước đây bằng cách xúc tiến các dự án hội nhập của
mình. Vào tháng 2 năm 2014 tại Ukraine, hai mối quan tâm này hợp lại với nhau.
Lời phát biểu của ông Margelov đã tóm gọn được cả sự
bất đồng của Nga trước tình hình bất ổn gây ra bởi phong trào Mùa Xuân Arab lẫn
nhận thức về một hiểm họa trực tiếp đối với Nga mà giờ đang tiềm ẩn trong một
cuộc đảo chính do EU hậu thuẫn đang diễn ra ngay trước ngưỡng cửa của mình.
Mối quan tâm đầu tiên được thể hiện thường xuyên nhất
trong vấn đề Syria. Sự hỗ trợ của Nga cho chính quyền Assad đã bao gồm từ việc
cung cấp vũ khí cho đến phủ quyết bất kỳ nghị quyết nào của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc vốn bị coi là đe dọa can thiệp từ bên ngoài. Mục đích chủ yếu của
điều này không phải là nhằm bảo vệ những hợp đồng buôn bán vũ khí của Nga – với
một chính phủ Syria vốn thường xuyên thiếu nợ – hay là nhằm bảo vệ một cơ sở tiếp
liệu nhỏ của hải quân Nga ở Tartus. Thay vào đó, Nga đang cố gắng phát huy cách
thức áp dụng luật pháp quốc tế đầy bảo thủ của mình, trong đó đặt nguyên tắc
không can thiệp vào một quốc gia có chủ quyền lên trên mọi trách nhiệm
bảo vệ hay quyền can thiệp. Lần duy nhất gần đây Nga tỏ ra do dự về nguyên
tắc này – khi Dmitry Medvedev quyết định bỏ phiếu trắng về Nghị quyết 1973 của
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cho phép các cường quốc bên ngoài bảo vệ dân
thường ở Libya – đã mở đường cho các nước phương Tây không kích hỗ trợ cho các
lực lượng đối lập. Phe đối lập sau đó đã lật đổ được chế độ cầm quyền và
hành quyết nhà lãnh đạo cũ Muammar Gadhafi. Hai năm sau đó, Libya vẫn tiếp tục
chìm trong tình trạng chia rẽ và bạo lực.
Từ việc này cũng như những sự kiện khác trong phong
trào Mùa Xuân Arab, Nga đã rút ra hai bài học. Thứ nhất, khi một đất nước xuất
hiện tình trạng nổi dậy có vũ trang, cách tốt nhất để giữ được ổn định là ủng hộ
chính quyền được công nhận thay vì hỗ trợ phe đối lập; việc phe nổi dậy được vũ
trang hay được hỗ trợ từ bên ngoài khó có thể dẫn đến tình trạng thống nhất và ổn
định sau đó. Thứ hai, nhất định phải đảm bảo rằng Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
không đưa ra bất kỳ nghị quyết nào nhằm cho các nước phương Tây một cái cớ nhân
đạo để can thiệp phục vụ cho lợi ích địa chính trị của họ. Thực tế, điều này
không chỉ áp dụng cho đe dọa can thiệp vũ trang mà còn cho những biện pháp ép
buộc, ví dụ như các lệnh trừng phạt. Do vậy, Nga đã phủ quyết mọi nghị quyết vi
phạm đến những đặc quyền của chính quyền Assad, và sau này cũng đã tìm cách đẩy
lùi lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc đối với chính phủ Iran.
Mối quan tâm thứ hai, hòng giữ cho các nước thuộc
Liên Xô trước đây nằm dưới phạm vi ảnh hưởng của Nga, đã là một chủ trương nhất
quán trong chính sách đối ngoại của Nga kể từ năm 1992. Việc này bao gồm chống
lại sự xâm lấn của NATO và Liên minh Châu Âu EU vào khu vực này, cũng như các nỗ
lực thúc đẩy hội nhập giữa các nước thành viên thuộc Cộng đồng các Quốc gia Độc
lập (SNG) trên các mặt kinh tế và an ninh. Một số thể chế đã được lập ra từ năm
1992 nhằm khuyến khích hội nhập, nhưng chưa thể chế nào đạt đến mức độ mà theo
cách nói của EU là “ngày càng sâu sắc”.
Vào tháng 1 và tháng 2 năm 2012, trong một chuỗi những
bài viết dài có thể coi là bản tuyên ngôn không chính thức cho nhiệm kỳ tổng thống
thứ ba của mình, Vladimir Putin đã đặt ưu tiên vào việc hình thành nên một Liên
minh Âu Á vào năm 2015, dựa trên cơ sở Liên minh Thuế quan với Belarus và
Kazakhstan. Từ góc nhìn của Putin, điều này sẽ sửa chữa một sai lầm lịch sử
thông qua phục hồi lại nhiều liên kết đã bị cắt đứt một cách thiếu cân nhắc giữa
Nga và các nước láng giềng từ 20 năm trước. Việc hội nhập cũng sẽ giúp củng cố
thêm cho nền kinh tế của các nước này, trong bối cảnh một thế giới nơi mà việc
liên kết thành các khối đang là xu thế. Tajikistan và Kyrgyzstan sẽ không có
nhiều lựa chọn nào khác ngoài gia nhập liên minh mới này để đảm bảo có thể tiếp
tục xuất khẩu hàng hóa và lao động dư thừa sang Nga và Kazakhstan mà không phải
chịu rào cản. Một số nước khác – những quốc gia giàu tài nguyên như Uzbekistan,
Turkmenistan và Azerbaijan – ít có khả năng sẽ gia nhập hơn. Như vậy lôi kéo được
Ukraine tham gia vào liên minh lại càng quan trọng, để thuyết phục dư luận ở
Nga tin vào tính khả thi của liên minh này và để lôi kéo các nước SNG khác cũng
tham gia.
Giới cầm quyền ở Nga thực chất đã khá chậm chạp
trong việc nhận ra mối đe dọa đối với kế hoạch Liên minh Âu Á từ kế hoạch Đối
tác phương Đông của EU. Phải đến mùa hè năm 2013 họ mới thực sự chú tâm đến những
kế hoạch trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Đối tác phương Đông tại Vilnius
vào tháng Chín năm 2013, trong đó bao gồm việc ký chính thức hay ký tắt các hiệp
định liên kết với Ukraine, Gruzia, Armenia và Moldova. Trong trường hợp
Ukraine, EU còn muốn tiến tới một Hiệp định Thương mại Tự do Sâu sắc và Toàn diện
(DCFTA). Ngay sau đó, các doanh nghiệp của giới đầu sỏ chính trị thân EU tại
Ukraine đã phải chịu trừng phạt kinh tế, và vào đầu tháng 9, tổng thống Armenia
trong một chuyến thăm ngắn ngày đến Matxcơva đã đồng ý gạt bỏ ba năm đàm phán về
một hiệp định liên kết với EU để gia nhập Liên minh Thuế quan. Những lời dụ dỗ
và đe dọa từ Nga đã thuyết phục được Viktor Yanukovych trì hoãn thỏa thuận liên
kết với EU chỉ chưa đầy một tuần trước khi hội nghị thượng đỉnh Vilnius diễn
ra; như vậy ít nhất Điện Kremlin cũng có thể hy vọng rằng cuối cùng Ukraine rồi
cũng sẽ bị thuyết phục gia nhập Liên minh Âu Á, thay vì mãi mãi rơi vào không
gian pháp lý dày đặc của EU.
Kể từ khi đó, EU và Nga đã tranh giành Ukraine một
cách gay gắt. Tuy nhiên, Nga chỉ thực sự gặp khủng hoảng khi tổng thống Ukraine
bị lật đổ một cách trái với hiến pháp; điều này làm dấy lên quan ngại của Nga về
sự can thiệp của phương Tây vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền
và mong muốn thiết lập quan hệ đặc quyền với những nước láng giềng từng thuộc
Liên Xô trước đây của Matxcơva. Nhiều lời chỉ trích của Nga về những hành vi của
phương Tây ở Libya đã được nhắc lại trong trường hợp Ukraine: trợ giúp về mặt
ngoại giao và vật chất cho các lực lượng chống đối; không chịu yêu cầu các nhóm
đối lập hành xử theo cùng một tiêu chuẩn giống với chính quyền; và đe dọa trừng
phạt.
EU bị cáo buộc đã dùng những chiến thuật như vậy để
dụ Ukraine ký vào thỏa thuận liên kết. Bên ngoài, Nga lấy cớ tôn trọng chủ quyền
của Ukraine để không đứng ra làm trung gian hòa giải giữa Yanukovych và phe đối
lập. Tình hình vốn đã bất an khi EU thảo ra hiệp ước ngày 21 tháng Hai làm cơ sở
cho việc thay đổi hiến pháp Ukraine, lập nên một chính phủ thống nhất và tiến tới
một cuộc bầu cử tổng thống vào cuối năm 2014. Tình hình bất an sớm trở thành phẫn
nộ trong chưa đầy 24 giờ sau đó, khi Yanukovych bỏ trốn khỏi Kiev và bị các đối
thủ của ông ta ở Rada Tối cao (tức Quốc hội Ukraine) tước bỏ mọi quyền lực, và
các nước châu Âu nhanh chóng tiếp nhận một chính quyền mới bao gồm hoàn toàn những
đối thủ của ông ta. Theo quan điểm của Matxcơva, điều này vi phạm rất nhiều
nguyên tắc pháp lý mà Nga và các nước phương Tây được cho là phải tôn trọng.
Việc các mối quan tâm của Nga về luật pháp quốc tế
và phạm vi lợi ích hợp nhất với nhau trong vấn đề ở Ukraine thay vì ở một quốc
gia SNG khác càng làm tình hình thêm trọng yếu. Trong số các nước nằm trong khối
SNG, Ukraine là nước quan trọng với Nga nhất. Phòng thủ lãnh thổ Nga sẽ trực tiếp
bị đe dọa nếu Ukraine chịu sự kiểm soát của các phe thù địch, và phần lớn Hạm đội
Biển Đen của Nga đang đóng tại bán đảo Crimea. Ukraine còn là hành lang trung
chuyển dầu mỏ và khí đốt từ Nga sang châu Âu, chiếm phần lớn doanh thu xuất khẩu
của nước này. Ukraine cũng còn là nơi tiêu thụ nhiều loại hàng hóa khác như ngũ
cốc từ Nga, Kazakhstan và Ukraine, loại hàng hóa mà điện Kremlin ngày càng chú
tâm đến trong vòng vài năm gần đây. Ukraine là một thị trường quan trọng của
Nga, và xét trên một số khía cạnh, các doanh nghiệp quốc phòng của hai nước phụ
thuộc lẫn nhau hoàn toàn.
Tuy vậy ý nghĩa của Ukraine đối với Nga lớn hơn nhiều
so với giá trị về vật chất đơn thuần, vì Ukraine có gắn bó chặt chẽ với nhận thức
về bản thân của Nga. Kiev được ví như “người mẹ của những thành phố của Nga”,
là nơi sản sinh ra đất nước, văn hóa và bản sắc của Nga, cũng là nơi Chính thống
giáo của Nga ra đời; kể cả những người Nga có tư tưởng tự do cởi mở cũng thấy
khó chấp nhận quan niệm rằng Ukraine là một nước hoàn toàn độc lập. Rất nhiều
quan điểm cho rằng lãnh thổ phía đông và trung Ukraine ngày nay từng thuộc về
Nga trong lịch sử. Trong số 45 triệu dân Ukraine, có đến 14 triệu người nói tiếng
Nga bản địa. Đến một nửa trong số đó là người mang sắc tộc Nga, cùng với một số
lượng chưa xác định cũng đang mang hộ chiếu Nga.
Phản ứng
của Hoa Kỳ và phương Tây
Rất ít quốc gia, và không có cường quốc nào lại áp dụng
những nguyên tắc đối ngoại của mình một cách cứng nhắc. Lập trường của Nga
trong vấn đề Ukraine đã thể hiện rõ điều đó. Kể từ ngày 27 tháng Hai, Nga đã
xâm phạm chủ quyền Ukraine bằng cách đưa binh lính vào Crimea và giành quyền kiểm
soát toàn bộ bán đảo này. Tiếp theo, tổng thống Nga được Quốc hội cho phép triển
khai các lực lượng vũ trang vào lãnh thổ Ukraine để bảo vệ người dân nói tiếng
Nga trước khả năng diễn ra bạo lực. Tuy nhiên cho đến ngày 5 tháng Ba, không có
dấu hiệu gì cho thấy các lực lượng của Nga muốn tiến ra ngoài bán đảo Crimea.
Không có bất kỳ trường hợp đổ máu nào, và chính quyền Nga cho rằng sự hiện diện
quân sự của họ tại Crimea chỉ là tạm thời, đang chờ sự ổn định được phục hồi và
một chính phủ hợp pháp ở Ukraine được lập ra.
Hoa Kỳ và các nước lớn ở châu Âu nhanh chóng chỉ trích
Nga vì đã can thiệp quân sự vào Ukraine, và kêu gọi Nga rút quân. Nhóm G7 tuyên
bố sẽ ngừng chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh G8 theo kế hoạch sẽ được tổ chức
tại Nga trong năm 2014. Tuy vậy, biết rõ rằng Nga có khả năng leo thang, và cho
rằng việc Nga vi phạm chủ quyền Ukraine là có thể bị đảo ngược nên các cường quốc
phương Tây có thể nói đã không làm gì.
Dù vậy, các nước phương Tây vẫn thấy cần phải có những
chính sách trừng phạt Nga hoặc khiến Nga phải lùi bước. Phản ứng bằng biện pháp
quân sự gần như là không thể xảy ra. Các biện pháp chính trị, chẳng hạn như ngừng
cho Nga tham gia vào các thể chế châu Âu, có thể khó thực hiện và dù sao cũng
chỉ có tác động hạn chế. Các biện pháp trừng phạt thương mại sẽ làm tổn hại đến
châu Âu không kém gì so với Nga, nước hiện đang là nhà cung cấp dầu thô và khí
thiên nhiên lớn nhất cho EU. Tuy nhiên, chính quyền Putin có thể vẫn còn có một
điểm yếu mà các nước phương Tây, mà cụ thể là các nước dẫn đầu trong khối EU,
có thể nhằm vào: khả năng tiếp cận hệ thống giáo dục, ngân hàng và thị trường bất
động sản ở các nước đó của giới thượng lưu Nga.
Trong vòng 10 năm qua, người Nga giàu có hiện diện
khá thường xuyên tại các thành phố Tây Âu. Nhiều người sở hữu đất đai, tài sản,
cho con cháu mình đi học hoặc có lợi ích kinh tế tại các nước Tây Âu hoặc Hoa Kỳ.
Họ sống một lối sống toàn cầu với những quyền sở hữu tài sản chắc chắn và một hệ
thống luật pháp ổn định của phương Tây. Trong số những người Nga giàu có này,
có nhiều nhân vật quan trọng mà Putin cần nhận được ủng hộ từ họ. Những nhân vật
đó bao gồm những người đứng đầu ngành công nghiệp nước Nga, ví dụ như những ông
trùm ngành kim loại Oleg Deripaska hay Roman Abramovich. Một số nhân vật thân cận
của Putin cũng nằm trong danh sách. Gần như tất cả những người đạt tới những vị
trí chính trị hay kinh tế quan trọng dưới thời Putin đều quen biết ông trước
khi ông được bổ nhiệm làm thủ tướng vào năm 1999. Một số người còn từng công
tác với ông khi ông còn đang phục vụ trong lực lượng KGB hoạt động tại Dresden;
một số người khác, cũng như Putin, sở hữu một nhà nghỉ ngoại ô trên bờ Hồ
Komsomolskoye ở vùng Leningrad vào khoảng giữa đến cuối những năm 1990. Kể cả
trong số ít những nhân vật này, vẫn có những quan chức có tài sản hay lợi ích
kinh tế hoặc gia đình ở nước ngoài.
Sự phụ thuộc của giới thượng lưu Nga vào các dịch vụ
ở các nước phương Tây đã được các nhà lập pháp Hoa Kỳ chú ý. Để phản ứng trước
việc chính quyền Nga không xét xử những cảnh sát, nhân viên thuế và công tố
viên bị cho là có liên quan đến cái chết trong tù của luật sư Nga Sergei
Magnitsky, người đã cáo buộc các quan chức ngành thuế nước này biển thủ 230 triệu
USD tiền thuế, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Trách nhiệm giải trình Pháp
quyền Sergei Magnitsky 2012 (Sergei Magnitsky Rule of Law Accountability Act).
Dự luật này cho phép Mỹ từ chối nhập cảnh đối với các quan chức Nga bị tình
nghi là có dính líu đến cái chết của Magnitsky và đóng băng tài sản của họ. Việc
đạo luật này được thông qua đã gây nên một cuộc khủng hoảng trong quan hệ Mỹ-Nga,
lên tới đỉnh điểm khi Duma Quốc gia Nga (Hạ viện Nga) quyết định cấm công dân Mỹ
nhận trẻ em mồ côi Nga làm con nuôi.
Đạo luật Magnitsky, và khả năng các nước châu Âu
khác đưa ra những đạo luật tương tự, đã làm nổi bật được điểm yếu của Nga là việc
giới thượng lưu đang ngày càng được toàn cầu hóa của Nga có thể dễ dàng bị gây
áp lực. Giữa năm 2013, Putin đã phản ứng bằng cách “quốc hữu hóa” toàn bộ quan
chức nhà nước; tất cả họ đều phải kê khai tài sản ở nước ngoài của gia đình
mình, số tài sản này họ được phép giữ; và phải rút toàn bộ tài sản của họ về
Nga. Một vài thành viên của Hội đồng Liên bang (tức thượng nghị sĩ) đã từ bỏ vị
trí của mình thay vì tuân theo luật. Một nhà tài phiệt đã buộc phải hoãn tham
gia vào chính trường. Ngoài ra còn có báo cáo rằng nhiều đại biểu Duma Nga (Hạ
viện Nga) đã phải ly hôn để tuân thủ điều luật này.
Mặc dù những luật lệ và nguyên tắc mới này đã làm giảm
ảnh hưởng của phương Tây lên các quan chức Nga đến một chừng mực nào đó, vẫn
còn có những điểm yếu khác. Một lượng lớn tài sản của giới thượng lưu Nga nằm tại
các nước Anh, Pháp, Đức và Italia. Có người còn có vợ chồng hoặc con cháu sinh
sống tại các nước đó. Hoạt động tài chính của họ đều được thông qua các ngân
hàng phương Tây. Các biện pháp như đưa ra chính sách thị thực nghiêm ngặt hơn,
đóng băng tài sản hay hạn chế tiếp cận các dịch vụ tài chính sẽ gây nhiều tổn hại
cho giới thượng lưu Nga hơn hẳn so với cho các nước phương Tây. Dù những người
thân cận nhất của Putin sẽ không phải chịu những tổn hại nặng nề bằng những
nhân vật thượng lưu khác, nhưng việc này rất có thể sẽ làm tụt giảm sự ủng hộ
Putin từ những người mà ông phụ thuộc vào. Nếu thực sự được như vậy, có thể sẽ
tạo ra được một động lực mạnh mẽ đủ để Putin tìm đến một giải pháp hòa giải
trong vấn đề Ukraine – mặc dù, theo như một tài liệu được báo cáo là được chuẩn
bị cho Hội đồng An ninh Quốc gia của Anh tiết lộ, những kiểu đe dọa như vậy dễ
có hiệu quả cao hơn khi được truyền tải một cách riêng tư, thay vì được công
khai.[2]
Chiều
hướng quan hệ Nga và phương Tây
Download
phần còn lại của văn bản tại đây: Diem
gioi han cua Nga va khung hoang Ukraine.pdf
—-
[1] Bình luận của Margelov được phát đi bởi đài phát
thanh Ekho Moskvy. BBC Monitoring, ‘Russia “Will Not Leave Brotherly Ukraine in
Trouble” – Senator’, 22 February 2014.
[2] Nicholas Watt, ‘UK Seeking to Ensure Russia
Sanctions Do Not Harm City of London’, Guardian, 3 March 2014,
http://www.theguardian.com/world/2014/mar/03/uk-seeks-russia-harm-city-london-document
No comments:
Post a Comment