Đỗ
Thanh Hải
Posted on 17/06/2014 by The Observer
Đối với nhiều người, hành vi của Trung Quốc ở Biển
Đông luôn khó hiểu. Quan sát sự khác biệt giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc
ở Biển Đông, Ryan Santicola kết luận Trung Quốc không có cách tiếp cận nhất
quán. Brad Gloasserman cũng thấy khó giải thích lý do Trung Quốc lại chọc giận
nhiều nước láng giềng của họ cùng một lúc. Tuy nhiên, xem xét các động thái của
Trung Quốc dưới lăng kính văn hóa chiến lược của Trung Quốc có thể cho
chúng ta một gợi mở đáng suy ngẫm.
Người Trung Quốc thường nhìn chính trị quốc tế như một
ván cờ lớn, trong đó mỗi nước đi là một phần trong chiến lược tổng thể để giành
chiến thắng. Có ba điều quan trọng trong bàn cờ đó. Thứ nhất, sự bí mật và mưu
kế là tối quan trọng để đánh bại đối một đối thủ mạnh hơn mình. Thứ hai, người
Trung Quốc tính toán dài hạn, hướng đến thay đổi tiệm tiến hơn là có tính cách
mạng, và tận dụng các cơ hội. Người Trung Quốc không thiếu kiên nhẫn như người
Phương Tây. Họ có thể kiên nhẫn đợi chờ thời điểm chín muồi để hành động. Thứ
ba, các chiến lược gia Trung Quốc không coi ‘chiến tranh’ là ưu tiên hàng đầu.
Như Thomas G. Mahnken đã chỉ ra, người Trung Quốc tin rằng chiến lược chủ yếu
nhằm tạo ra “thế” để không chiến mà thắng. Những hiểu biết này giúp phần nào giải
mã những việc Trung Quốc đang làm ở Biển Đông.
Chiến
lược lớn của Trung Quốc
Là một cường quốc đang trỗi dậy, Trung Quốc cần có
các khu vực ảnh hưởng ở xung quanh biên giới (vùng đệm an ninh). Nói cách khác,
Trung Quốc cuối cùng sẽ tìm mọi cách để đẩy Mỹ ra khỏi Đông Bắc Á và Đông Nam
Á. Do Trung Quốc không đủ khả năng ganh đua với Mỹ về quân sự, chiến lược lớn của
Trung Quốc là tránh đối đầu trực diện với Mỹ, sử dụng áp lực để thu phục các nước
láng giềng, buộc họ phải tự rời khỏi vòng tay của Mỹ.
Trong chiến lược lớn ấy, Biển Đông là đấu trường
chính vì ba lý do. Một là Biển Đông là một vùng biển nửa kín án ngữ nhiều tuyến
đường biển chủ chốt đến Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Thứ hai, các quốc gia vừa
và nhỏ ở xung quanh Biển Đông có ít khả năng cưỡng lại sức mạnh vượt trội của
Trung Quốc. Cuối cùng, sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông yếu hơn nhiều so với ở
Biển Hoa Đông. Từ nhãn quan chiến lược của Trung Quốc, Biển Đông là yếu huyệt của
toàn bộ hệ thống an ninh của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương.
Bằng chứng cho mưu đồ của Trung Quốc ở Biển Đông là
yêu sách đường lưỡi bò. Yêu sách này không có cơ sở pháp lý và trái với Công ước
của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Trung Quốc công khai yêu sách này tháng
5/2009 trong công hàm phản đối Báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia nộp lên Ủy
ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc. Bất chấp sự chỉ trích và đề nghị
giải thích của nhiều nước, Trung Quốc tránh né làm rõ ranh giới và bản chất của
yêu sách đó. Sự mập mờ tạo ra mức độ linh hoạt lớn hơn cho Trung Quốc để diễn
giải quyền và tài phán của nước này đối với một vùng biển rộng lớn mà Trung Quốc
gọi là “vùng nước lịch sử’, chiếm tới 80% Biển Đông.
Trò
chơi của Trung Quốc ở Biển Đông
Các sự vụ ở Biển Đông hé lộ một chiến lược tinh tế của
Trung Quốc để chèn ép các quốc gia yêu sách khác ở đây. Chiến lược này có 4
thành tố. Thứ nhất, Trung Quốc phát triển một lực lượng hải quân đủ khả năng để
ngăn chặn Mỹ ở bên ngoài chuỗi đảo thứ nhất, và cũng đủ sức để đè bẹp hải quân
của các quốc gia Đông Nam Á.
Thứ hai, Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu bán quân sự
và dân sự làm phương tiện để thay đổi nguyên trạng. Đến nay, với các tàu cá và
tàu chấp pháp, Trung Quốc đã giành được kiểm soát đối với bãi Trăng Khuyết
(Scarborough Shoal) và đang tiến hành bao vây điểm đóng quân của Philippines ở
Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal).
Thứ ba, Trung Quốc sử dụng giàn khoan di động khổng
lồ để kiểm soát không gian biển. Từ ngày 1/5/2014, TQ đã điều dàn khoan Hải
Dương 981 và hơn 100 tàu đủ loại đến vùng nước Việt Nam tuyên bố vùng thềm lục
địa hợp pháp của họ. Hải Dương 981 không đơn thuần là một giàn khoan dầu, mà nó
còn là một cột mốc chủ quyền.
Sự vụ giàn khoan 981 đáng báo động ở mức độ bạo lực.
Các tàu cá và tàu chấp pháp của Trung Quốc, có sự yểm trợ của tàu chiến, không
ngần ngại sử dụng cách “đánh nguội”, như đâm húc, sử dụng loa công suất lớn, và
bắn vòi rồng, để phá hỏng và đe dọa các tàu đối phương. Máy bay của Trung Quốc
bay ở tầm thấp để uy hiếp các thủy thủ Việt Nam. Va chạm và vòi rồng đã làm bị
thương nhiều thủy thủ và làm nhiều tàu của Việt Nam hư hỏng.
Để bảo vệ giàn khoan, Trung Quốc đã tùy tiện áp đặt
hạn chế đi lại ở quanh khu vực giàn khoan. Lúc đầu, Trung Quốc tuyên bố khu vực
cấm tàu bè nước ngoài với bán kính 1 hải lý từ vị trí giàn khoan. Khoảng cách
này sau đó được nâng lên thanh 3 hải lý. Trên biển, các tàu Trung Quốc chủ động
thiết lập vùng cấm ở phạm vi 20-25 hải lý từ giàn khoan. Một tàu đánh cá của Việt
Nam đã bị đâm chìm ở vị trí cách giàn khoan 17 hải lý.
Thứ tư, Trung Quốc sử dụng ngoại giao để đánh lạc hướng
dư luận. Lãnh đạo Trung Quốc liên tục hứa hẹn “phát triển hòa bình”. Mặc dù chủ
trương theo đuổi việc giải quyết các tranh chấp qua con đường song phương,
Trung Quốc từ chối thỏa hiệp về vấn đề chủ quyền. Trung Quốc cũng trì hoãn các
nỗ lực hướng đến xây dựng một Bộ Quy tắc Ứng xử, mặc dù đây là một trong các
cam kết trong Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông ký năm 2002. Tại
các hội nghị quốc tế, các quan chức và học giả Trung Quốc thường né tránh bàn
luận chi tiết về cơ sở pháp lý của yêu sách đường lưỡi bò và đổ lỗi cho các bên
tranh chấp khác cũng như Mỹ là nguyên nhân buộc họ phải quyết đoán. Phát biểu của
Tướnng Wang Guanzhong tại Đối thoại Shangri-La 13 vừa rồi là một ví dụ điển
hình.
Trung Quốc đang buộc các đối thủ chơi ván cờ của họ,
và ván cờ đó Trung Quốc có lợi thế. Các “va chạm nguội” có thể đủ để bẻ gãy ý
chí của đối thủ nhỏ hơn trong khi tránh được sự can thiệp mạnh mẽ từ phía Mỹ.
Phản
ứng của các nước trong khu vực
Các quốc gia yêu sách ở Biển Đông có ít “lá bài” để
đáp trả Trung Quốc. Pháp lý là lựa chọn tốt cho Philippines, nhưng không phải
cho Việt Nam tại thời điểm hiện tại. Kinh tế Việt Nam hiện phụ thuộc nhiều vào
Trung Quốc. Năm 2013, 28.1 % xuất khẩu của Việt Nam, phần lớn là nguyên liệu đầu
vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, là từ Trung Quốc. Nguy cơ từ các đòn trả đũa
kinh tế và triển vọng mịt mờ của các con đường pháp lý làm cho lựa chọn này
không hấp dẫn trong ngắn hạn. Trong khi đó, ở Việt Nam, các cuộc biểu tình chống
Trung Quốc đã biến thành bạo động gây lo ngại cho giới đầu tư nước ngoài. Chủ
nghĩa dân tộc thực sự là một hòn than hồng rất dễ gây bỏng tay.
Cả Hà Nội và Manila đều cố gắng kêu gọi sự hỗ trợ của
ASEAN. Nhưng họ đều vấp phải khó khăn trong việc tìm kiếm sự nhất trí trong
ASEAN để nêu đích danh và phê phán hành vi của Trung Quốc. Khi Trung Quốc đưa
giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, ngày 10/5/2014, ASEAN ra một tuyên
bố riêng rẽ về Biển Đông. Tuy nhiên, tuyên bố này né tránh việc lên án hành vi
đơn phương của Trung Quốc.
Lo ngại về khả năng leo thang thành xung đột vũ
trang, cả Việt Nam và Philippine đều tránh triển khai tàu chiến đến điểm nóng. Ở
sự vụ giàn khoan, dù Việt Nam tuyên bố sẵn sàng sử dụng “mọi biện pháp cần thiết”,
các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng nói rõ Việt Nam sẽ không nổ súng trước. Rõ ràng, rất
khó để biện minh cho việc nổ súng trước trong luật pháp quốc tế. Nếu họ nổ
súng, Mỹ cũng không cứu họ. Nếu một cuộc xung đột vũ trang xảy ra, Việt Nam rõ
ràng yếu thế trước hỏa lực từ không quân và hải quân của Trung Quốc. Như vậy,
do không có bất kỳ sự hỗ trợ chiến lược nào đáng kể, Việt Nam buộc phải chọn giải
pháp an toàn. Tại Đối thoại Shrangri-La vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng của Việt
Nam đã chọn “tông” phát biểu vừa phải, giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của khủng
hoảng giàn khoan trong khi nhấn mạnh mối quan hệ tổng thể tốt đẹp giữa Việt Nam
và Trung Quốc để kêu gọi Trung Quốc lùi bước.
Mỹ
cần can dự mạnh mẽ hơn
Washington đã tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ
ở Thái Bình Dương qua chính sách “tái quân bình” với một loạt các biện pháp
quân sự, kinh tế và ngoại giao. Mỹ cũng là nước lớn tiếng trong việc phê phán
các hành động đơn phương của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa có một chiến lược
toàn diện và lâu dài để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông. Nếu Mỹ để xu hướng
hiện tại tiếp diễn, vị thế của họ ở Biển Đông sẽ bị suy giảm.
Trước nguy cơ thất thế ở một khu vực chiến lược trọng
yếu, Mỹ nên thực hiện bốn biện pháp. Một là, Mỹ nên lên án và phản ứng mạnh mẽ
trước các mưu đồ nhằm thay đổi nguyên trạng. Hai là, Mỹ nên có biện pháp cụ thể
để đảm bảo an toan hàng hải và thúc đẩy việc áp dụng nghiêm túc UNCLOS 1982. Mỹ
nên có tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc.
Ba là, Mỹ nên thúc đẩy các cuộc thảo luận nghiêm túc về một bộ quy tắc ứng xử
có ràng buộc và các giải pháp căn bản, lâu dài cho các tranh chấp. Mỹ không nên
đơn thương độc mã làm các việc trên, mà nên hợp tác với các chặt chẽ với các quốc
gia yêu sách và các quốc gia sử dụng biển để xây dựng một trật tự pháp luật
minh bạch và đáng tin cậy ở Biển Đông.
Bóng đang ở phía sân của Mỹ, và Mỹ cần phải một phản
ứng quyết liệt hơn./.
Bản dịch từ bài gốc Tiếng Anh: South
China Sea in China’s Grand Strategy, CSIS xuất bản tại: http://csis.org/files/publication/Pac1444.pdf
No comments:
Post a Comment