Lee Kuan Yew - One
Man’s View of the World
Biên
dịch: Tống
Thị Thanh Duyên | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted on 02/03/2014 by Nghiên cứu quốc tế
Nguồn: Lee Kuan Yew (2013). “Japan: Strolling into Mediocrity”, in L.K
Yew, One Man’s View of the World (Singapore: Straits Times Press), pp.
125-136.
Bài liên quan: #109 –
Lý Quang Diệu viết về Đông Nam Á và Việt Nam
-------------------
NHẬT
BẢN: Dần bước vào sự tầm thường
Thách thức nghiêm trọng nhất Nhật Bản phải đối mặt
là vấn đề dân số. Dân số của đất nước này đang nhanh chóng già đi và không tự
thay thế. Tất cả những vấn đề khác – một nền kinh tế đình đốn và một sự lãnh
đạo chính trị yếu ớt – đều nhạt nhòa đi khi so với vấn đề này. Nếu Nhật Bản
không giải quyết vấn đề dân số thì tương lai của nó sẽ rất đáng lo ngại.
Chỉ riêng những số liệu đã cho thấy rõ. Tỉ lệ sinh
đứng ở mức 1,39 trẻ trên một mẹ, quá thấp so với mức thay thế 2,1. Với mức sinh
ngày càng thấp, số lượng người lao động chu cấp cho mỗi người già đã giảm từ 10
người năm 1950 xuống 2,8 người trong những năm gần đây. Con số này này được dự
báo sẽ tiếp tục giảm xuống, tới mức 2 vào năm 2022 và có thể là 1,3 vào năm
2060. Tới khi con số này chạm mức 1,3, những người lao động trẻ có thể thấy quá
sức chịu đựng đến mức họ sẽ chọn cách rời bỏ. Dân số, vốn tăng trưởng trong
vòng sáu thập kỷ rưỡi sau chiến tranh từ 72 triệu người lên 128 triệu người, đã
cho thấy sự sụt giảm trong ba năm qua và hiện tại đang ở mức 127,5 triệu người.
Một nền kinh tế thu hẹp lại không còn cách bao xa. Tình thế hoàn toàn không
mang tính bền vững.
Đã nhiều năm, phụ nữ Nhật Bản chấp nhận vai trò được
chỉ định theo văn hóa của họ trong gia đình và trong xã hội. Họ khá hạnh phúc
khi ở nhà sinh nở và nuôi dạy con cái, phục vụ người già và quán xuyến nội trợ.
Nhưng khi phụ nữ đã đi đây đó, bị ảnh hưởng bởi những người ở những nơi khác
trên thế giới, và khi họ đã nếm mùi vị của tự do lao động cùng sự độc lập về
kinh tế, các quan điểm đã thay đổi sâu sắc và không thể đảo ngược. Ví dụ như
một vài phụ nữ Nhật làm việc cho hãng hàng không Singapore Airlines đã kết hôn
với những tiếp viên hàng không người Singapore. Họ đã chứng kiến cách sống của
phụ nữ ở Singapore: tách biệt với nhà chồng và không có chồng kè kè ra lệnh.
Xã hội Nhật Bản cố hết sức kìm hãm làn sóng này và
giữ cho phụ nữ phụ thuộc kinh tế vào đàn ông càng lâu càng tốt – nhưng thất
bại. Trong một hoặc hai thế hệ, phụ nữ đã vứt bỏ vai trò của họ trong xã hội
cũ. Họ thực hiện những tính toán riêng và quyết định rằng cách đối xử vốn có
không còn xứng đáng với họ nữa. Họ không muốn mang gánh nặng con cái. Thật
không may, một số lượng đáng kể những nhà tuyển dụng Nhật đã từ chối thay đổi
theo thời đại. Không như Thụy Điển, nơi giúp phụ nữ có thể vừa có con cái vừa
có sự nghiệp, nhiều công ty Nhật vẫn chuyển những người phụ nữ rời công việc để
sinh con sang diện lao động tạm thời. Đối với những người phụ nữ có tham vọng
và đang trên đà phát triển – cũng như đối với những người cảm thấy họ cần thu nhập
toàn thời gian tương ứng với một sự nghiệp – thì quyết định có con trở nên quá
tốn kém một cách không cần thiết. Nhiều người không bao giờ đủ can đảm để liều
lĩnh, thậm chí ngay cả khi họ muốn có con.
Vấn đề tỉ lệ sinh thấp của Singapore không quá khác biệt
so với của Nhật Bản. Nhưng có một điểm khác biệt căn bản: chúng ta đã giảm nhẹ
vấn đề của mình bằng những người nhập cư. Nhật Bản thì rõ ràng là không khoan
nhượng với việc chấp nhận người nước ngoài. Quan điểm cho rằng dân tộc Nhật
phải thuần nhất đã ăn sâu đến mức không có nỗ lực nào trong việc thảo luận công
khai các phương án được thực hiện. Đơn giản là không thể nào tưởng tượng ra một
Nhật Bản đa chủng tộc – dù là trong công chúng Nhật hay trong giới tinh hoa
chính trị của đất nước.
Tôi đã tận mắt chứng kiến niềm tự hào thuần chủng
này. Trong thời Nhật chiếm Singapore, tôi có một quãng thời gian làm biên tập
viên tiếng Anh ở Tòa nhà Cathay. Vào ngày 8 tháng Mười Hai hằng năm luôn có một
nghi lễ ở đó, trong nghi lễ này những người lính Nhật mang kiếm dài của Samurai
sẽ hô: “Ware ware Nihonjin wa Amaterasu no Shison desu (Người Nhật chúng ta
là con cháu Nữ thần Mặt Trời)”. Nói cách khác, chúng tôi là thế còn các
người thì không. Tôi nghi ngờ việc họ lặp lại câu nói đó nhiều lần như vậy ngày
nay nhưng tôi không nghĩ niềm tin cơ bản đã thay đổi. Một sĩ quan dân sự Nhật
được giáo dục và sinh ra tại đất Mỹ tên là George Takemura đã không được tin
tưởng hoàn toàn. Anh ta làm việc ở Hodobu (Bộ Thông tin và Tuyên truyền
Nhật) trong suốt cuộc chiếm đóng của quân Nhật và có tiếp xúc với những biên
tập tin tức điện tín như tôi. Anh ta nói chuyện lẫn cư xử đều nhẹ nhàng.
Bám chắc vào một niềm tin như vậy có những hệ quả
nghiêm trọng. Điều đó có nghĩa là những giải pháp hợp lý nhất theo lẽ thường
cho thế tiến thoái lưỡng nan về dân số của họ có thể tự động bị loại bỏ. Ví dụ,
nếu tôi là người Nhật, tôi sẽ tìm cách để thu hút nhập cư từ những dân tộc
trông giống người Nhật và cố gắng hòa nhập họ – người Trung Quốc, người Hàn
Quốc, có lẽ cả người Việt Nam nữa. Và sự thật là những nhóm dân như vậy đã tồn
tại ở Nhật rồi. Có 566.000 người Triều Tiên và 687.000 người Trung Quốc sinh
sống ở đất nước này. Nói sõi tiếng Nhật, họ hoàn toàn đã được đồng hóa vào phần
còn lại của xã hội về lối sống lẫn thói quen và thiết tha được chấp nhận như
một công dân Nhật hoàn chỉnh, được nhập tịch. Thực tế, nhiều người còn được
sinh ra và lớn lên tại Nhật. Tuy vậy, xã hội Nhật vẫn không chấp nhận họ.
Để hoàn toàn hiểu đến tận cùng quan điểm biệt lập
này, ta phải xem xét một nhóm khác cũng bị loại trừ: những người Nhật thuần
chủng từ Mỹ La-tinh, còn được gọi là nikkeijin. Từ thập niên 1980, hàng
chục nghìn người này, phần lớn từ Brazil, đã chuyển đến Nhật theo những chính
sách di cư tự do được dựng lên với hi vọng họ sẽ là câu trả lời cho vấn đề dân
số đang lão hóa của đất nước. Khi thực hiện hành trình nửa vòng trái đất, những
nikkeijin này đã đi theo hướng ngược lại với ông nội hoặc ông cố của họ,
những người đã xuất cảnh hồi thập niên 1920 để tìm kiếm việc làm ở các đồn điền
cà phê khát nhân công tại Brazil. Cuộc thử nghiệm thất bại. Lớn lên trong một
xã hội hoàn toàn khác, những nikkeijin bị những người bà con ở Nhật xa
lánh về văn hóa đến mức họ bị đối xử như người nước ngoài. Cuối cùng, vào năm
2009, ở đỉnh cao của cuộc khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã chi cho những nikkeijin
thất nghiệp một khoản phí tái định cư để họ quay lại Brazil. Ở một xã hội khác,
một xã hội với một thái độ khác đối với người nước ngoài, cuộc thử nghiệm này
có thể đã thành công. Thực tế, chính phủ Nhật Bản chắc hẳn cũng đã tin vào khả
năng thành công trước khi họ thi hành chính sách. Ngay chính họ cũng đã đánh
giá thấp mức độ không chấp nhận (người nước ngoài của xã hội).
Người nước ngoài hiện chiếm dưới 1,2 phần trăm tổng
số cư dân ở Nhật, so với 6 phần trăm ở Anh, 8 phần trăm ở Đức và 10 phần trăm ở
Tây Ban Nha. Nhật Bản thuần nhất đến mức những người Nhật trẻ đã trải qua một
thời gian ở nước ngoài, thường là vì cha mẹ họ được đưa đi làm việc như những
người định cư ở nước ngoài, sẽ có một thời gian khó khăn để hòa nhập khi về
nước, ngay cả khi họ học ở những trường Nhật. Nhiều giao tiếp hằng ngày bị hạn
chế, và người tiếp xúc thường đưa ra suy luận dựa trên ngôn ngữ cơ thể và âm
yết hầu. Sẽ mất nhiều năm và cần một sự chuyển biến cơ bản trong quan niệm để
đất nước này tính tới một giải pháp dân số dựa trên thu hút nhập cư. Nhưng Nhật
Bản liệu có được thứ xa xỉ về thời gian để chờ thêm nhiều năm nữa trước khi đối
mặt với vấn đề này hay không? Tôi nghi ngờ điều đó. Nếu họ để thêm 10 hay 15
năm nữa, họ sẽ trượt dốc không phanh và có lẽ sẽ quá muộn để cứu vãn.
Nhật Bản đã trải qua hai “thập kỷ mất mát”, và đất
nước này hiện đang bước vào thập kỷ thứ ba. Từ năm 1960 tới năm 1990, GDP của
đất nước này đã tăng trung bình hằng năm 6,2 phần trăm. Từ đống đổ nát sau
chiến tranh, người Nhật đã tự nâng mình dậy, làm việc cật lực và xây nên nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới, với sự trợ giúp từ người Mỹ. Khi các doanh nghiệp
Nhật giành được các bất động sản ở phương Tây, những nhà phân tích lo ngại đã
từng cảnh báo rằng Đại công ty Nhật Bản (Japan Incorporated) đã sẵn sàng thế
chân các nước phát triển vốn đang dần chững lại - không khác cách
một vài người bàn về Trung Quốc ngày nay. Nhưng vào năm 1991, bong bóng tài sản
ở Nhật đã vỡ, khởi đầu cho giai đoạn tăng trưởng trì trệ kéo dài. Tỷ lệ tăng
trưởng GDP trung bình hằng năm từ 1991 chỉ khiêm tốn ở mức 1 phần trăm. Như tôi
đã viết, thập kỷ đình trệ thứ ba đã bắt đầu. Nếu những hành động kiên quyết
không được thực hiện sớm để giải quyết vấn đề dân số thì không có thay đổi về
chính trị hay kinh tế nào có thể hồi phục đất nước này, cho dù chỉ thành một
cái bóng mờ nhạt của sự năng động sau chiến tranh của nó.
Đặc điểm nhân khẩu học quyết định số mệnh của một
dân tộc. Nếu bạn suy giảm dân số, với tư cách là một quốc gia, bạn đang suy giảm
sức mạnh. Người già không đổi xe hơi và dàn ti vi. Họ không mua các bộ com-lê
mới hay tới các câu lạc bộ chơi golf mới. Họ đã có tất cả những thứ họ cần. Họ
hầu như không ăn tối ở những nhà hàng sang trọng. Vì lý do này, tôi rất bi quan
về nước Nhật. Trong vòng một thập kỷ, tiêu thụ trong nước sẽ bắt đầu giảm và
quá trình có lẽ không thể đảo ngược được nữa. Điều này lý giải một phần tại sao
các gói kích thích lặp đi lặp lại chỉ có tác dụng khiêm tốn lên nền kinh tế.
Nhật Bản của hôm nay vẫn là quốc gia sáng tạo thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ, nếu
đo bằng con số bằng sáng chế toàn cầu. Nhưng những phát minh là từ những người
trẻ, không phải những người già. Trong ngành Toán, một người đạt đỉnh cao ở tầm
tuổi 20 hoặc 21. Không một nhà toán học lớn nào cho ra những công trình lớn hơn
sau độ tuổi đó.
Tôi đã thăm Nhật Bản vào tháng Năm năm 2012 để tham
dự một hội nghị có tên “Tương lai châu Á”, được tổ chức bởi tập đoàn Nihon
Keizai Shimbun. Khi nói chuyện với một vài lãnh đạo người Nhật tôi gặp, tôi có
nói vòng quanh chủ đề dân số vì tôi muốn hiểu xem họ thực sự nghĩ thế nào. Tôi
không hề nói: “Các vị sẽ nhận dân nhập cư chứ?” mà nói: “Giải pháp của các vị
là gì?” Họ đáp: “Trợ cấp cho chăm sóc trẻ nhiều hơn và các khoản thưởng cho trẻ
sơ sinh.” Đó là cả một sự thất vọng. Các khoản thưởng cho trẻ sơ sinh sẽ không
đảo ngược được tình thế. Việc chính phủ khuyến khích sinh con chỉ có một hiệu
quả rất hạn chế ở những nơi họ thực hiện, bởi vì vấn đề không phải là chuyện
tiền bạc mà là cách sống và nguyện vọng đã thay đổi của người dân. Ngay cả ở
những nơi khuyến khích này tạo nên khác biệt, như Pháp hay Thụy Điển, quá trình
cũng chậm chạp và cực kỳ tốn kém.
Người Nhật là một dân tộc gây ấn tượng mạnh. Khi
trận động đất Tohoku xảy ra vào ngày 11 tháng Ba năm 2011, thế giới đã theo dõi
đầy cảm phục cách người dân ở Nhật phản ứng – không hoảng loạn, không cướp bóc,
chỉ có lòng tự trọng và vẻ khoan dung trên cảnh tàn phá, mọi người chăm sóc và
giúp đỡ lẫn nhau. Rất ít xã hội nào có thể duy trì được sự bình tĩnh, trật tự
và kỷ luật như thế trong suốt một thảm họa có tính nghiêm trọng như vậy. Nhật
Bản hầu như là số một trong cách mà họ phấn đấu cho sự hoàn hảo đối với mọi thứ
họ làm – từ việc sản xuất những chiếc ti vi và xe hơi không có lấy một lỗi nhỏ
đến sự kết hợp của món sushi ngon lành nhất. Khả năng làm việc nhóm của nhân
viên Nhật giúp họ vượt lên trên những quốc gia khác. Người Hàn Quốc và Trung
Quốc có lẽ có thể sánh được với người Nhật ở cấp độ từng cá nhân. Nhưng theo
đội nhóm thì không thể nào sánh được với người Nhật. Có thể chính ấn tượng này
đã đưa tôi đến chỗ tin tưởng rằng một lúc nào đó người Nhật sẽ chuyển mình khỏi
cơn ngủ mê về vấn đề dân số của họ – ngay khi thực tế khắc nghiệt nhìn thẳng
vào mặt họ. Rốt cục thì làm sao có thể cho phép những người hàng xóm của bạn
phát triển khi bạn dần lu mờ đi mà không có động thái gì về việc này?
Nhưng giờ tôi không còn tin vào việc Nhật chắc chắn
sẽ có phản ứng. Nhiều năm trôi qua và tôi không thấy một chuyển biển nào. Có
nhiều khả năng đây là một quốc gia đang dạo bước vào sự tầm thường. Cuộc sống,
chắc chắn, sẽ vẫn thoải mái đối với những người Nhật trung lưu trong nhiều năm
sắp tới. Không như những quốc gia đã phát triển ở phường Tây, Nhật Bản không
tích những khoản nợ nước ngoài khổng lồ. Đất nước này cũng rất phát triển về
công nghệ và người dân có học thức cao. Nhưng cuối cùng thì những vấn đề của
Nhật Bản cũng sẽ đuổi kịp nó. Nếu tôi là một thanh niên người Nhật và tôi có
thể nói tiếng Anh, có lẽ tôi sẽ chọn đường di cư ra nước ngoài.
Hỏi
– Đáp
…
Xem phần
còn lại của nội dung văn bản tại đây: Ly
Quang Dieu ve Nhat Ban.pdf
No comments:
Post a Comment