Ernest J. Wilson
III -
The ANNALS of the American Academy
Biên dịch: Phạm Hương Trà | Hiệu đính: Phạm Thủy Tiên
Posted on 04/03/2014
by Nghiên cứu quốc tế
Nguồn:
Ernest J. Wilson III (2008). “Hard
Power, Soft Power, Smart Power”, The
ANNALS of the American Academy of Political and Social Science 2008, pp.
110-124.>> PDF
Bài
viết này mở rộng khái niệm quyền lực cứng và quyền lực mềm nhằm giới thiệu khái
niệm quyền lực thông minh, được định nghĩa là khả năng một chủ thể kết hợp các
thành tố của quyền lực cứng và quyền lực mềm thông qua các phương thức tác động
qua lại nhằm đạt được mục đích mình mong muốn một cách hiệu quả. Bài viết lập
luận rằng việc phát huy quyền lực thông minh đã trở thành vấn đề cấp thiết đối
với an ninh của các quốc gia do tác động của những thay đổi cấu trúc mang tính
dài hạn trong các điều kiện quốc tế và những thất bại trong ngắn hạn của chính
quyền hiện tại. Những tranh luận hiện nay về ngoại giao công chúng và quyền lực
mềm chịu tác động từ những thất bại trong việc xử lý các khía cạnh khái niệm,
thể chế và chính trị của thách thức nêu trên. Đây cũng là ba khía cạnh được tác
giả phân tích trong bài viết này.
Nhiều
ý kiến trong và ngoài nước Mỹ cho rằng nội dung và cách triển khai hiện tại của
chính sách đối ngoại Mỹ còn nhiều khiếm khuyết và cần được sửa chữa. Thật không
may là bản thân cuộc tranh luận này cũng có khiếm khuyết: những người ủng hộ
quyền lực mềm lẫn những người cổ vũ quyền lực cứng đều không tích hợp đầy đủ
các lập trường của họ vào một khuôn khổ hợp nhất để thúc đẩy lợi ích quốc gia.
Những người ủng hộ quyền lực mềm và ngoại giao công chúng có khuynh hướng trình
bày lập luận một cách thiếu thuyết phục, các lập trường của họ thường thể hiện
sự ngây thơ về mặt chính trị và yếu kém về mặt thể chế. Trong khi đó, những
người ủng hộ quyền lực cứng, vốn nắm giữ sức mạnh về chính trị và thể chế, lại
thường đưa ra các lập luận không thỏa đáng. Họ dường như tin rằng có thể yên
tâm bỏ qua các yếu tố của sức mạnh quốc gia nằm ngoài phạm vi quan điểm truyền
thống hoặc chỉ đơn giản cộng thêm các yếu tố này vào quan điểm vốn có của mình.
Kết quả là lợi ích quốc gia đã không được đáp ứng thỏa đáng bởi cuộc tranh luận
giữa hai chiều hướng kém hoàn hảo.
Vào
giai đoạn chuyển tiếp sang một chính phủ mới, thông thường các cuộc đối thoại
quan trọng sẽ diễn ra trong các chiến dịch tranh cử, trong các cuộc họp kín của
các đảng, và trong các viện nghiên cứu tư vấn chính sách ở Washington về các ưu
tiên chính sách ngoại giao của chính quyền mới. Trong quá khứ, các cuộc đối
thoại như vậy sẽ chủ yếu được định hình bởi các mối quan tâm về quyền lực cứng
truyền thống. Nhưng khi nhìn về tương lai, các tính toán quyền lực mềm sẽ có
dấu ấn mạnh mẽ hơn nhiều trong nội dung các chính sách an ninh quốc gia và đối
ngoại của Mỹ.
Bài
viết này nhằm mục đích cung cấp một khung lý thuyết về quyền lực thông minh và
đóng góp vào cuộc thảo luận các quan điểm đối nghịch nhau như vừa đề cập, để
cải thiện hiệu quả của chính sách đối ngoại. Trước tiên bài viết giải thích tại
sao các điều kiện chuyển tiếp và cấu trúc mới lại đòi hỏi phải có quyền lực
thông minh, sau đó phân tích các thách thức về mặt khái niệm, thể chế và chính
trị cần phải giải quyết nhằm thúc đẩy việc đạt được quyền lực thông minh của
nước Mỹ. Đây là kết quả của một dự án kéo dài cả năm trời[1] bao gồm một cuộc đối thoại quốc tế trên blog
(www.smartpowerblog.org), một chuyên đề nghiên cứu đang tiến hành và một chuỗi
hội thảo đang tranh luận sôi nổi về khái niệm này. Bài viết cũng được thực hiện
đồng thời với một công trình khác được thực hiện bởi Ủy ban về Quyền lực Thông
minh mới thành lập gần đây, do Joseph Nye và Richard Armitage thuộc Trung tâm
Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) điều hành.
Tại
sao bây giờ phải quan tâm đến quyền lực thông minh?
Sự
quan tâm ngày càng gia tăng đối với quyền lực thông minh phản ánh hai khuynh
hướng đương đại, một mang tính cấu trúc và dài hạn, một mang tính ngắn hạn và
tình thế, chủ yếu được thúc đẩy bởi các chính sách của chính quyền đương nhiệm.
Lý do rõ ràng nhất cần suy xét nghiêm túc về quyền lực thông minh là do các
thiếu sót chính sách đã được thừa nhận rộng rãi của chính quyền Mỹ trong 7 năm
qua. Có một niềm tin rộng khắp ở Mỹ và trên thế giới rằng chính sách an ninh
quốc gia và đối ngoại của chính quyền Bush đã không thông minh, ngay cả khi xét
theo tiêu chí của riêng chúng, và kết quả là các chính sách này đã thỏa hiệp
(hay phương hại) các lợi ích ngoại giao và an ninh của Mỹ, gây ra sự giận dữ
chưa từng có trên toàn cầu, và làm giảm đáng kể vị thế của Mỹ trên thế giới
(Kohut and Stokes 2006; Pew Global Attitudes Project 2006; Halper and Clarke
2004).
Trái
lại, lãnh đạo của các quốc gia khác lại sử dụng công cụ quyền lực của họ một
cách tinh vi hơn. Lấy một ví dụ, các lãnh đạo của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(PRC) đã triển khai các nguồn lực của nước này một cách rất có chiến lược, mặc
dù không có nhiều thể hiện nổi bật. Những lựa chọn chính sách riêng biệt của
Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và các cố vấn đã phản ánh sự phân tích công phu về tình
hình thế giới, và họ đã triển khai một loạt các công cụ cân bằng và có phối hợp
nhằm đạt được những mục tiêu chính trị chuyên biệt của mình, cũng như thúc đẩy
các mục tiêu quốc gia. Quyết định của Hồ Cẩm Đào về việc phát triển và nhất
quán theo đuổi học thuyết “Trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc” rõ ràng là đối
trọng với cách tiếp cận của Tổng thống Mỹ George W. Bush vốn tập trung chủ yếu
vào nhu cầu duy trì ưu thế quân sự. Tuy nhiên cả hai cách tiếp cận này đều là
ví dụ rõ ràng về những tính toán chính sách do lãnh đạo của các cường quốc đưa
ra, có tính tương đối độc lập và không bị gò ép bới các yếu tố cấu trúc. Các
lãnh đạo của Trung Quốc đã đưa ra những quyết định hết sức tỉnh táo khi theo
đuổi đường lối khéo léo hơn. Lẽ ra họ đã có thể theo đuổi chiến lược “Trỗi dậy cứng
rắn của Trung Quốc”. Họ đã có thể có những xáo trộn về mặt ngoại giao trong
cách ứng xử với các quốc gia châu Phi, và vụng về trong cách theo đuổi các
nguồn tài nguyên dầu mỏ và khoáng sản; nhưng thay vào đó, họ đã tạo ra điều mà
Josh Kurlantzick (2007) gọi là “chiến dịch quyến rũ” đa diện thông qua việc
cung cấp viện trợ nước ngoài và dành sự chú ý đặc biệt cho các lãnh đạo châu
Phi. Tương tự như vậy, họ đã có thể phớt lờ châu Âu và dựa chủ yếu vào quyền
lực cứng trên khắp eo biển Đài Loan. Dù rằng các chiêu thức hấp dẫn của Trung
Quốc đã và đang mang lại những kết quả trái ngược nhau, nhưng nó đã được tiến
hành dựa trên một quá trình xem xét công phu với hàng loạt các công cụ quyền
lực quốc gia.
Tuy
nhiên, hiện nay sự khao khát quyền lực thông minh không chỉ đến từ những lựa
chọn hay hoặc dở của cá nhân các nhà lãnh đạo. Ngay cả khi chính quyền Mỹ không
để lộ quá nhiều điểm yếu, thì các xu hướng thế tục mang tính lâu dài vẫn sẽ
khơi dậy những nhu cầu về một cách thức mới trong việc lên ý tưởng và thực thi
quyền lực nhà nước. Nói tóm lại, các nước G8 đang tăng tốc quá trình chuyển đổi
từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế hậu công nghiệp, nơi mà quyền lực
ngày càng phụ thuộc vào năng lực của quốc gia trong việc tạo ra và vận hành tri
thức và thông tin. Khả năng sáng tạo và đổi mới của một quốc gia có thể ưu trội
hơn việc sở hữu các sư đoàn thiết giáp hoặc tàu sân bay, và những công cụ công
nghệ cao đời mới có thể giúp tăng cường đáng kể tầm ảnh hưởng quân sự và phi
quân sự. Các lực lượng quân đội và vũ trang vẫn rất quan trọng, nhưng vai trò
tương đối của họ đã thay đổi hoàn toàn, cả về cách thức quân đội tiến hành
chiến tranh cũng như sự kết hợp giữa các nguồn lực quân sự và phi quân sự. Thế
giới của những cuộc chiến đã được số hóa nhiều hơn, mang tính liên kết và linh
động hơn, và các nguồn lực phi quân sự như truyền thông đã nổi lên giữa hàng
loạt các công cụ quyền lực nhà nước (Arguilla and Ronfeldt 1999).
Các
nước phát triển đang có mọi thứ, từ bom thông minh, điện thoại thông minh đến
blog thông minh. Và khi các quốc gia trở nên thông minh hơn trong việc sử dụng
các phương tiện truyền thông trên nhiều nền tảng khác nhau, thì các lực lượng
phi quốc gia như Al Qaeda cũng vậy (Brachman 2006; Thomas 2003). Bất kỳ chủ thể
nào có tham vọng củng cố vị thế trên trường quốc tế đều phải xây dựng chiến
lược xoay quanh những nguyên tắc cơ bản mới về “sự thông minh” này.
Các
chiến lược thông minh cũng cần phải tính đến tầm ảnh hưởng đang thay đổi giữa
các quốc gia truyền thống, với sự trỗi dậy của Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, và
các chủ thể khác trên trường quốc tế kể từ khi hai phe đối địch trong Chiến
tranh Lạnh sụp đổ. Sức mạnh mới của các nước này đã tạo nên những trở ngại mới
đối với các hành động đơn phương của các quốc gia vốn đã có vị thế của nhóm G8,
trong đó có Hoa Kỳ. Việc xây dựng chính sách đối ngoại tập trung vào các tiềm
năng mới của công nghệ và các lực lượng mới trên thế giới đòi hỏi mức độ tinh
vi hơn so với trước đây.
Nguyên
nhân cuối cùng của cuộc săn tìm quyền lực thông minh ngày nay là việc đối tượng
dân chúng cũng trở nên “thông minh hơn”. Với sự phổ biến của giáo dục trung học
và đại học, cũng như tính khả dụng của các phương tiện thông tin đại chúng,
người dân ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh ngày càng trở nên giàu có, sành sỏi
và hiểu biết hơn về bản thân và xã hội, và ít bị ảnh hưởng dễ dàng bởi việc
thực thi quyền lực mềm hoặc cứng. Tầng lớp người dân có học thức mới này đòi
hỏi phải được đối xử khác so với trước đây; khi thế giới quanh họ ngày càng trở
nên đô thị hóa và tầng lớp trung lưu ngày càng đông, thì các cá nhân ngày càng
có lập trường quyết đoán hơn. Sự lan rộng của các thực tiễn dân chủ này đồng
nghĩa với việc các nhà lãnh đạo nước ngoài cũng ít có khả năng hơn so với trong
quá khứ trong việc thay mặt Mỹ, đại diện từ xa cho người Mỹ và cho các quyền
lực của Mỹ. Chế độ dân chủ đặt ra nhiều khó khăn rõ rệt trong việc xây dựng và
thực hiện chính sách đối ngoại của Mỹ tương tự như những cơ hội mà nó đem lại.
Nói
tóm lại, thế giới đã và đang trở nên thông minh hơn, và các giới chức ngoại
giao cấp cao của Mỹ vẫn chưa thể bắt kịp nhịp độ. Mãi cho đến gần đây, các quan
chức chính quyền tổng thống Bush mới thể hiện sự miễn cưỡng hoặc bất lực trong
việc hình thành và thực thi quyền lực một cách sáng tạo, phù hợp với thời đại,
và tổng hợp sức mạnh của các công cụ quyền lực khác nhau của nhà nước. Điều này
đã chứng tỏ vấn đề của cả hai đảng, khi chính quyền đảng Dân Chủ trước đây cũng
không phải là hình mẫu về quyền lực thông minh, với nhiều sai lầm nghiêm trọng
trong những nỗ lực ban đầu nhằm kết hợp sức mạnh quân sự, kinh tế và các ảnh
hưởng ngoại giao.
Đi
tìm Quyền lực thông minh
Không
có gì ngạc nhiên khi cách sử dụng quyền lực không thông minh đã dẫn đến xu
hướng trái ngược là quyền lực thông minh. Tại Mỹ cũng như trên thế giới, người
ta liên tục nghe thấy những lời kêu gọi cải cách rộng rãi từ tất cả các nơi
trên bản đồ chính trị, xuyên suốt cộng đồng những người ủng hộ quyền lực cứng
và mềm, từ những người theo chủ nghĩa tân tự do đến những người theo chủ nghĩa
tân bảo thủ cải cách (Korb, Boorstin, and Center for American Progress 2005;
Chomsky 2002; Haas 2005; Halper and Clarke 2004; Nossel 2004; Princeton Project
on National Security 2006). Không có gì ngạc nhiên khi những lời chỉ trích gay
gắt nhất lại đến từ những người ủng hộ chính sách ngoại giao, cả ngoại giao
truyền thống và ngoại giao công chúng, và từ những người ủng hộ những hình thức
khác của quyền lực mềm. Tuy nhiên lý lẽ của họ có rất nhiều thiếu sót, cho thấy
nhu cầu phải có các yếu tố sau:
1.
định
nghĩa và khái niệm hoàn chỉnh hơn về ý nghĩa của quyền lực cứng và quyền lực
mềm;
2.
chú
trọng nhiều hơn đến những bối cảnh thực tế về thể chế – nhấn mạnh đến những
phương thức mà các khái niệm này được thực thi;
3.
nỗ
lực có tính hệ thống hơn để hợp nhất các động lực chính trị thực tiễn – gắn
liền với những chuyển dịch hướng tới học thuyết quyền lực thông minh, cũng như
nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm can dự về mặt chính trị với các vấn đề một cách nhất
quán và hiệu quả.
Nhằm
nâng cao tính hiệu quả của việc triển khai quyền lực cứng và mềm một cách riêng
lẻ, và kết hợp chúng thành quyền lực thông minh, chúng ta phải khắc phục được
ba vấn đề như sau: cung cấp các định nghĩa chính xác và chi tiết hơn, phân tích
cẩn thận các thể chế của quyền lực cứng và mềm, và nhìn nhận rõ ràng hơn nữa về
những động lực chính trị cần thiết để hỗ trợ kết hợp quyền lực cứng và mềm
trong việc tạo ra quyền lực thông minh.
Những
thách thức về định nghĩa và khái niệm
Trong
chính trị quốc tế, có “quyền lực” nghĩa là có khả năng khiến một chủ thể, không
còn cách nào khác, phải hành động theo những cách thức mà mình mong muốn. Quyền
lực cứng là khả năng ép buộc họ phải làm như vậy. Các chiến lược của quyền lực
cứng tập trung vào can thiệp quân sự, ngoại giao cưỡng bức và trừng phạt kinh
tế để gia tăng lợi ích quốc gia (Art 1996; Campbell and O’Hanlon 2006; Cooper
2004; Wagner 2005). Theo các bài viết học thuật, cách tiếp cận theo chủ nghĩa
tân hiện thực có xu hướng nhấn mạnh vào quyền lực cứng, đặc biệt là quyền lực
cứng của các quốc gia, trong khi đó các học giả theo chủ nghĩa tự do lại nhấn
mạnh vào quyền lực mềm như là nguồn lực chính trong nghệ thuật quản lý đất nước
(cùng với sức mạnh thiết lập luật chơi – yếu tố thường bị bỏ qua một cách kỳ lạ
trong những cuộc đối thoại hiện nay về quyền lực cứng và mềm).
Trái
với quyền lực cưỡng bức, quyền lực mềm là khả năng thuyết phục người khác làm
theo những gì mình muốn. Là khái niệm có ảnh hưởng to lớn được Joseph Nye giới
thiệu lần đầu tiên vào năm 1990 và mở rộng hơn trong những nghiên cứu sau này
của ông, thuật ngữ quyền lực mềm đã trở thành trọng tâm phân tích trong
các cuộc thảo luận về chính sách đối ngoại. Nye định nghĩa quyền lực mềm là khả
năng đạt được những gì mình muốn thông qua thuyết phục hoặc hấp dẫn thay vì
cưỡng bức (Nye 1900). Nó tạo ra sự hấp dẫn và bao gồm hầu hết mọi yếu tố ngoài
sức mạnh kinh tế và quân sự (Cooper 2004). Nye (2004) cho rằng: “Xét về mặt các
nguồn lực, thì nguồn lực của quyền lực mềm là những thứ tạo nên sức hấp dẫn
này”[2]. Thuật ngữ này không phải là chưa từng bị chỉ trích, cũng như
gây sự bất mãn về khái niệm hoặc tính ứng dụng của nó. Ví dụ, một tác giả người
Canada đã cho rằng khái niệm thông thường về quyền lực cứng và mềm là không phù
hợp với Canada; dẫn đến kết quả thất bại khi các nhà phân tích “cố gắng ghép
một khái niệm có nguồn gốc từ Mỹ vào bối cảnh chính trị của Canada”
(Smith-Windsor 2005). Như đã thấy trong công trình hợp tác giữa Nye và Ủy ban
CSIS, ông cũng đã cố gắng tiếp cận ý tưởng về quyền lực thông minh.
Tái
định hình vấn đề
Bài
viết này định nghĩa quyền lực thông minh là khả năng một chủ thể kết hợp các
thành tố quyền lực cứng và quyền lực mềm thông qua các phương thức tác động qua
lại nhằm đạt được mục đích mình mong muốn một cách hiệu quả.
Một
khuôn khổ cho quyền lực thông minh vững chắc về mặt khái niệm và liên quan chặt
chẽ với chính sách cần được xây dựng dựa trên một số xem xét bổ sung mang tính
cốt lõi như sau:[3]
- Mục tiêu mà chủ thể hướng tới khi thực hiện quyền lực – bản chất bên trong và bối cảnh toàn cầu rộng hơn của nó. Quyền lực không thể gọi là thông minh khi những người sử dụng nó không biết gì về nhóm đối tượng và các khu vực mục tiêu.
- Nhận thức về bản thân của chủ thể, cũng như hiểu biết về những mục đích và khả năng của họ. Quyền lực thông minh đòi hỏi người sử dụng nó phải biết rõ đất nước hoặc cộng đồng của họ đang tìm kiếm điều gì, cũng như ý chí và khả năng đạt được mục tiêu của họ.
- Bối cảnh khu vực và quốc tế, trong đó hành động sẽ được thực hiện
- Những công cụ được sử dụng, cũng như khi nào cần tách biệt hoặc kết hợp chúng và bằng cách nào.
Mỗi
yếu tố trong số này đều xứng đáng nhận được sự chú ý nhiều hơn là chỉ trong một
bài viết, nhưng cũng cần phải thảo luận thêm về vấn đề “công cụ” vì đây là
trọng tâm của những cuộc thảo luận hiện nay về quyền lực cứng và mềm – những
công cụ nào thích hợp nhất trong những trường hợp nào. Một chủ thể đòi hỏi phải
có hiểu biết vững chắc về kho công cụ quản lý nhà nước. Quyền lực thông
minh đồng nghĩa với việc hiểu về những điểm mạnh và hạn chế của mỗi công cụ.
Quân đội được mong đợi sẽ đạt được những gì? Những chương trình phát sóng có
mục đích có thể có tác dụng gì? Những chương trình trao đổi có thể làm được
những gì? Hơn nữa, một chủ thể cần có khả năng nhận ra khi nào cần sử dụng loại
quyền lực này thay vì loại khác để đạt được mục đích quốc gia, tùy hoàn
cảnh. Điều này liên quan đến sự khôn ngoan khi biết cách kết hợp những
yếu tố của quyền lực cưỡng bức với quyền lực thuyết phục và truyền cảm hứng
(nói cách khác là kết hợp quyền lực cứng và quyền lực mềm). Sẽ rất có ích nếu
có hiểu biết về những trường hợp đã kết hợp hiệu quả giữa quyền lực cứng và mềm
trong quá khứ, để từ đó làm định hướng cho hiện tại và tương lai.
Cuối
cùng, cách tiếp cận quyền lực thông minh thực sự công phu cần đi cùng nhận thức
rằng quyền lực cứng và mềm không chỉ đơn thuần tạo ra những “công cụ” trung
tính phục vụ cho một lãnh đạo ý chí sáng suốt, thông thái và độc lập; mà bản
thân các công cụ đó cũng tự tạo nên các thể chế riêng biệt và độc lập, kèm theo
văn hóa của các thể chế này, tự chúng cũng có thể có những ảnh hưởng riêng mang
tính quy phạm với các thành viên trong đó, mỗi cá thể lại có những quan điểm,
động cơ và con đường sự nghiệp được tính trước.
Những
thách thức về thể chế
Những
thách thức chính trị
Kết
luận
Download
toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Quyen
luc cung, quyen luc mem, quyen luc thong minh.pdf
[1] Dự án “Quyền lực cứng, Quyền lực mềm, Quyền lực thông minh” là
một sáng kiến của Trung tâm Ngoại giao Công chúng tại Trường báo chí và Thông
tin Annenberg, Đại học Nam California, thành phố Los Angeles. Mục đích của dự
án là phát triển một cách tiếp cận tiên tiến về quyền lực quốc gia, cho phép
các nhà hoạch định chính sách cấp cao có thể kết hợp tốt hơn các tài sản và
công cụ quyền lực cưỡng chế (quyền lực cứng) như hành động quân sự với các
nguồn lực của ngoại giao công chúng và truyền thống (quyền lực mềm). Dự án có một
trang blog (www.smartpowerblog.org) và một chương trình nghiên cứu nhằm xây
dựng một danh mục các thuật ngữ, tài liệu chuyên đề, và một hội thảo quần
chúng. Giám đốc Dự án Quyền lực Thông minh chính là tác giả của bài viết này,
dựa trên bài diễn văn phiên toàn thể của tác giả tại hội nghị quốc tế về Ngoại
giao Công chúng, được tổ chức bởi Bộ Ngoại giao Anh tại Wilton Park năm 2006.
[2] Trong nghiên cứu gần đây của mình, Nye đã giới thiệu thuật ngữ
“quyền lực thông minh”, nhưng phát biểu của ông khác với ý kiến được đề cập
trong bài này. Trong phân tích chính sách, tôi tin rằng quyền lực thông minh
nên là khái niệm khung trọng tâm mà theo đó, quyền lực cứng và quyền lực mềm
được kết hợp với nhau. Tuy nhiên độc giả cũng nên tham khảo lại cách dùng thuật
ngữ này của Nye, bao gồm cả nhóm “quyền lực thông minh” được tập hợp bởi Trung
tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.
[3] Tóm lại, những giả thuyết này nhấn mạnh vào tầm quan trọng của
bối cảnh của quyền lực. “Thông minh” trong bối cảnh này có thể chưa hẳn là
thông minh trong bối cảnh khác. Một chiến lược thông minh ở Afghanistan chưa
chắc đã là một chiến lược thông minh ở Iraq. Một chiến lược thông minh trong
tháng Tư khi sang tháng Năm có thể trở nên không thông minh nữa. Mỗi công cụ
quyền lực có thời gian biểu riêng – quyền lực mềm thường mất nhiều năm mới phát
huy tác dụng, trong khi một cuộc không kích quyền lực cứng có thể xảy ra gần
như ngay tức khắc. Những nguyên tắc về thời gian và địa lý quyết định phần lớn
việc một chiến lược có thông minh hay không. Kết hợp quyền lực cứng và quyền
lực mềm một cách hiệu quả đồng nghĩa với việc công nhận những mối tương quan
cũng như điểm khác biệt giữa chúng. Những ảnh hưởng này có thể đi theo hai
hướng. Ví dụ, quyền lực cứng có khả năng và thường giúp khuếch trương quyền lực
mềm. Người ta có xu hướng lắng nghe rất cẩn thận đối với những nước có vũ khí
hạt nhân. Pakistan có xu hướng cẩn thận lắng nghe Ấn Độ, một nước láng giềng
liền kề với quân đội hùng hậu và vũ khí hạt nhân đa dạng. Cùng lúc, vận dụng
quyền lực mềm hiệu quả có thể khuếch trương quyền lực cứng. Quan hệ lâu bền
giữa Pháp và các nước châu Phi nói tiếng Pháp từ nhiều thập kỉ nay được dựa
trên việc sử dụng quyền lực mềm trong đời sống hàng ngày bao gồm ngôn ngữ, kết
hợp với can thiệp quân sự khôn ngoan khi cần thiết để củng cố ảnh hưởng kinh tế
và văn hóa.
No comments:
Post a Comment