Trần Thị
Phương Hoa
Chủ nhật, 02 Tháng 3 2014 14:39
Bài viết này trình bày khái
quát về chính sách đối ngoại của Ukraina kể từ năm 1991 cho đến 2010. Trong
thời gian này đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại an
ninh của Ukraina được xuất bản. Có hai thời điểm số lượng đầu sách ra nhiều
nhất là cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, khi Ukraina đã dần định hình
chính sách đối ngoại và an ninh sau 10 năm cải cách và khẳng định mình trên
trường quốc tế. Thời điểm thứ hai, với số đầu sách ít hơn là vào năm 2005, sau
cuộc Cách mạng Cam 2004, được coi là cuộc cách mạng cuối cùng trong chuỗi các
cuộc cách mạng màu sắc trong không gian hậu Xô Viết. Năm 2010, sau khi Tổng
thống Yanukovich lên nắm quyền, đã lẻ tẻ xuất hiện những bài báo đánh giá và dự
báo về định hướng đối ngoại của Ukraina. Có thể nói, hầu hết những bình luận về
chính sách đối ngoại của Ukraina đều xoay quanh hai đối tác quan trọng của nước
này là EU và Nga. Bản thân Ukraina và nền chính trị của Ukraina cũng luôn thể
hiện những tính toán trong mối quan hệ với hai cường quốc này. Ngoài ra, quan
hệ với Mỹ và NATO cũng là nội dung được đề cập đến. Trong khi đó, châu Á dường
như ít xuất hiện trong các nghiên cứu nêu trên.
Cuốn sách được coi là
công trình đầu tiên trình bày một cách hệ thống và có cơ sở lý thuyết về chính
sách đối ngoại của Ukraina trong 10 năm đầu sau khi tuyên bố độc lập được xuất
bản năm 2002 với tên gọi Chính sách đối ngoại và an ninh của Ukraina: Quan
điểm lý thuyết và so sánh (Ukrainian Foreign and Security Policy:
Theoretical and Comparative Perspectives) của Moroney[1]. Đây là cuốn sách đưa ra nhiều vấn đề, quan điểm
đa dạng, thậm chí đối lập nhau về định hướng chiến lược chính sách đối ngoại và
an ninh của Ukraina. Cuốn sách 298 trang này gồm 3 phần, không kể phần Mở đầu
và Kết luận. Phần I có tựa đề “Những hạn chế của chủ nghĩa hiện thực” phân tích
những hạn chế của việc nghiên cứu quan hệ đối ngoại của Ukraina nếu tiếp cận từ
chủ nghĩa hiện thực. Những nghiên cứu theo hướng này thường quá chú trọng đến
việc Ukraina đã thất bại trong xây dựng chính sách đối ngoại dựa trên các
nhân tố nội lực. Nhiều tác giả cho rằng việc tiếp cận tới chính sách đối ngoại
của Ukraina từ quan điểm cấu trúc (constructivism) là khả thi hơn. Roman
Wolczuk nhận xét “sẽ là một câu hỏi ngu ngốc “nước Pháp là gì?”, vậy mà gần đây
chỉ thấy người ta mải miết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ukraina là gì?”,
“nước Nga là gì”, dẫn đến những bế tắc về lý thuyết”[2]. Vấn đề thường trực trong đầu óc các nhà
hoạch định chính sách đối ngoại của Ukraina kể từ khi nước này giành độc lập
năm 1991 là làm sao khẳng định bản sắc Ukraina trên trường quốc tế, trong
khi bản thân nội bộ Ukraina còn chưa thống nhất về bản sắc dân tộc của
nước này. Phần II của cuốn sách giới thiệu những vấn đề liên quan đến an ninh
của Ukraina, trong đó có yếu tố quân sự. Các tác giả công nhận rằng Ukraina đã
thành công trong việc kế thừa sức mạnh quân sự có từ thời Liên Xô cũ với vị thế
độc lập mới của Ukraina. Tuy nhiên, đề tài về xây dựng sức mạnh quốc
phòng của Ukraina hiện vẫn chưa được nghiên cứu sâu như nhận định của nhiều tác
giả. Phần thứ III của cuốn sách trình bày về “Những định hướng của chính sách
đối ngoại và an ninh Ukraina”, trong đó định hướng châu Âu vẫn được coi là ưu
tiên hàng đầu đối với Ukraina.
Các tác giả đã dựa trên nhiều
lý thuyết quan hệ quốc tế, trong đó chủ yếu thiên về chủ nghĩa cấu trúc
(constructivism) hơn là chủ nghĩa hiện thực (realism). Nhận xét về chính sách
đối ngoại của Ukraina kể từ năm 1991 cho đến nay, một số tác giả cho rằng “Ukraina
tiến hành một chính sách đối ngoại bất ổn định và dễ lung lay. Kiev chưa đưa ra
một cam kết chính thống nào về bất cứ một định hướng ưu tiên nào”[3]. Trong khi đó, một số khác nhận thấy định
hướng chính sách thân phương Tây của Ukraina lộ rõ. Phân tích của Paul D’Anieri
được coi là phù hợp hơn cả “Hiện nay, tư tưởng nhằm tăng cường hình ảnh
dân tộc và động cơ địa chính trị của Ukraina đều thể hiện trong chính sách đối
ngoại của họ: thiết lập quan hệ với châu Âu, độc lập với Nga nhưng không hoàn
toàn cắt đứt với Nga. Theo tôi, đó là chính sách của Ukraina trong 10 năm qua
(1991-2001)”[4]. Trên thực tế, hầu hết các tác giả đều nhận
thấy hai khuynh hướng nổi trội trong chính sách đối ngoại của Ukraina: khẳng
định vị thế độc lập tự chủ và định hướng thân phương Tây nhưng vẫn duy trì quan
hệ với Nga.
Nếu cuốn sách do Moroney làm
chủ biên được coi là giới thiệu một cách có hệ thống hơn cả về chính sách đối
ngoại của Ukraina thì trước đó, năm 1999 một loạt các sách đã xuất bản phân
tích quan hệ của Ukraina với Nga, với phương Tây, trong đó có châu Âu và
NATO. Đó là các cuốn “Chấm dứt sự mở rộng NATO: các quốc gia Baltic, NATO và
Ukraina” (Endgame in NATO’s enlargement: the Baltic States, NATO and Ukraine)
của Yaroslav Bilinsky dài 148 trang; “Ukraina và Nga: anh em kình địch”
(Ukraina and Russia: a fraternal rivalry) của Anatol Lieven dài 182 trang và
“Ukraina và an ninh châu Âu” (Ukraina and European Security) của David Albright
và Semyen Appatov dài 288 trang. Tất cả những cuốn sách này đều thể hiện khuynh
hướng lưỡng cực trong chính sách đối ngoại của Ukraina: cực EU và cực Nga. Bản
thân các tác giả cũng tự chia thành hai nhóm: nhóm ủng hộ cho chính sách thân
EU (đại diện là Bilinsky) và nhóm ủng hộ cho chính sách thân Nga (Lieven). Cuốn
sách của Yaroslav Bilinsky đưa ra hai dự báo: NATO sẽ kết thúc việc mở rộng
bằng kết nạp Ukraina và ba nước vùng Baltic và sử dụng bốn nước này ngăn chặn
ảnh hưởng của nước Nga. Cũng với các nước Baltic, Ukraina mong muốn gia nhập
vào NATO. Trong khi đó, Bilinsky cho rằng phương Tây muốn tăng cường an ninh
cho Ukraina nhưng chưa kết nạp nước này vào NATO vì những mối quan hệ an ninh
của Ukraina với Nga (hiệp ước Hạm đội biển Đen giữa Ukraina và Nga). Điều này
ngầm cho thấy nếu Ukraina muốn gia nhập NATO thì cần dứt khoát các mối quan hệ
quân sự với Nga.
Ngược với luận điểm ủng hộ
Ukraina gia nhập NATO của Bilinsky, Lieven cho rằng Ukraina không nên gia nhập
khối hiệp ước quân sự này. Theo nhận định của tác giả này, phương Tây ủng hộ
các cải cách kinh tế, nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina nhưng không
khuyến khích nước này vào NATO để biến thành một vùng đệm chống lại nước
Nga[5]. Lieven đưa ra
ba điều kiện để Ukraina có thể gia nhập NATO: khi Nga cũng được mời gia nhập
NATO, khi Nga trở thành một siêu cường và khi cải cách của Ukraina bằng với tốc
độ của các nước Đông Âu. Lieven cho rằng Ukraina và Nga vốn là một khối liên
kết hữu cơ mang tính lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội, Ukraina và Nga mang
nhiều nét chung về tâm lý, tôn giáo, ngôn ngữ. Trong khi đó, quan hệ giữa
Ukraina và châu Âu đã bị phá vỡ trong một thời gian dài và khó mà hàn gắn ngay.
Theo Lieven, nếu quan hệ Ukraina- Nga bị ngăn chặn thì không hẳn là có lợi cho
Ukraina. Thêm vào đó, nếu Ukraina một mực chỉ chú trọng tới hội nhập với châu
Âu thì bản thân Ukraina đã mất đi một lợi thế trong việc kế thừa truyền thống
hợp tác với Nga để tạo ra sức mạnh cho mình. Lieven đã sử dụng nhiều tài liệu
về chính sách đối ngoại từ thời Kravchuk (1991-1994) đến thời Kuchma
(1994-2005) như là việc chuyển từ chính sách thân phương Tây sang thân Nga.
David Albright và Semyen Appatov
cũng xem xét chính sách đối ngoại của Ukraina từ hai vecto: châu Âu và Mỹ ở
phương Tây và Nga ở phía Đông thông qua phân tích chính sách của Kravchuk và
Kuchma. Hai tác giả này cho rằng lựa chọn tốt hơn cả đối với Ukraina là thân
với phương Tây về chính trị và thân với phương Đông về kinh tế. Tuy nhiên, tác
giả phân tích rằng nếu vậy quan hệ Ukraina-Nga sẽ mang tính giả tạo, thiếu tin
cậy lẫn nhau. Cuốn sách này cũng nhìn nhận lực lượng thân Nga ở Ukraina có khả
năng gây ra xung đột dẫn tới khả năng ly khai của vùng Crime và Donbas[6] . Cuốn sách này giành một phần trình bày
quan hệ Ukraina-Nga, theo đó một số tác giả cho rằng Nga coi việc Ukraina tuyên
bố độc lập mang tính tiêu cực và thể hiện thái độ quay lưng lại với Nga. Cao
trào cho phản ứng này là xung đột ở Chechnya năm 1994-1995 sau khi nhiều nước
SNG bao gồm cả Ukraina đã từ bỏ liên kết chính trị-quân sự và chỉ giới
hạn trong quan hệ kinh tế với Nga[7].
Nhận định về khả năng gia nhập
EU của Ukraina, tác giả Nancy Popson cho rằng “Đối với châu Âu, Ukraina vẫn còn
có nhiều hạn chế về các thiết chế chính trị và kinh tế (đặc biệt là hệ thống
pháp lý) và đều có khoảng cách rất xa với tiêu chuẩn châu Âu. Đặc biệt châu Âu
có phản ứng tiêu cực khi sản phẩm xuất khẩu chính của nước này lại là những thứ
mà các nước EU đang dư thừa như nông sản và thép. Các quan chức EU vẫn khuyến
khích Ukraina hợp tác và tuân theo các chuẩn mực pháp lý, kinh tế, dân chủ của
EU nhưng bất chấp những lời khẩn cầu từ Kiev, EU từ chối xem xét kế hoạch gia
nhập EU của nước này”[8].
Quan hệ giữa Ukraina và EU được
phân tích kỹ hơn trong “EU và Ukraina: hàng xóm, bạn bè hay đối tác?” (The EU
and Ukraine: neighbours, friends, partners?)[9]. Ann Lewis, tác giả của cuốn sách
này nhận xét rằng Ukraina đã sớm đặt quan hệ với EU từ thời kỳ Ukraina còn lúng
túng trong phát triển nội lực và định hướng chính sách đối ngoại. Bản thân tổng
thống Kuchma bị vây hãm trong sự chống đối của nhân dân vì hoạt động yếu kém
của chính phủ. Trong khi đó, Kuchma cũng bị Mỹ và châu Âu mất tín nhiệm do liên
quan đến trách nhiệm chống tội phạm. Mặc dù Ukraina tuyên bố ưu tiên định hướng
sang châu Âu và xin gia nhập EU nhưng rõ ràng nước này còn xa mới đáp ứng
được các yêu cầu của EU về chính trị và kinh tế đối với các nước ứng cử viên
(tiêu chuẩn Copenhagen). Một số vấn đề mà Ukraina gặp rắc rối trong quan hệ với
EU vẫn là tự do truyền thông hay các rào cản đối với xã hội dân sự đã khiến
Ukraina càng thêm xa rời các tiêu chuẩn dân chủ của EU, mặc dù Ukraina đã nỗ
lực xây dựng khái niệm công dân với những sự khác biệt về tộc người, tôn giáo
và ngôn ngữ, thể hiện sự dung hợp những khác biệt về văn hóa quốc gia. Giữa
Ukraina với EU vẫn còn những khác biệt quá lớn, đặc biệt trong sự điều hành
luật pháp cũng như vai trò không rõ ràng và quyền hạn của tổng thống khiến nền
dân chủ bị vi phạm. Một số lo ngại cho rằng hệ thống đầy biến động của các đảng
ở Ukraina do chưa có một liên minh đảng phái đủ mạnh đã gây ra scandal nhiều
hơn là củng cố diện mạo chính trị. Trong khi đó, các cải cách kinh tế của
Ukraina lại được coi là đầy hứa hẹn và gây ấn tượng với phương Tây bằng việc
duy trì tăng trưởng trong mọi lĩnh vực và kiềm chế được lạm phát. Mối
quan tâm được giành cho ngành năng lượng do vai trò quan trọng của nó đối với
nền kinh tế (nhập khẩu năng lượng chiếm một phần lớn trong nợ nước ngoài của
Ukraina, trong khi nền công nghiệp Ukraina được coi là tiêu phí ít năng lượng)
và Ukraina còn có vị trí quan trọng trong việc là nơi trung chuyển dầu và khí
đốt cho EU.
Năm 2004, khủng hoảng chính trị
ở Ukraina và cuộc cách mạng Cam đã chấm dứt giai đoạn cầm quyền hơn 10 năm của
Tổng thống Kuchma. Thay thế ông Kuchma, Tổng thống Yushchenko người vốn luôn
thể hiện chính sách thân phương Tây và đề ra các cải cách trong nước nhằm
ngăn chặn tham nhũng, thúc đẩy thị trường tự do tuyên bố kiên trì theo đuổi
việc gia nhập EU. Tuy nhiên châu Âu lại tỏ ra hờ hững. Phân tích các động thái
của EU sau khi ông Yuschenko lên nắm quyền, Michael Meyer nhận xét rằng “EU
hoàn toàn không chào đón Ukraina.. EU vẫn lưỡng lự”[10]. Ngay trong tháng đầu tiên tại vị,
Yuschenko đã sang Brussel hai lần, trong đó có 1 lần tham gia Hội nghị thượng
đỉnh NATO ngày 22-23 tháng 2 năm 2005. Trong phiên họp chung với Ukraina,
TT Mỹ Bush đã ví TT Ukraina với TT Washington, người đã đấu tranh vì những giá
trị mà cả phương Tây đề cao. Ngược lại, TT Pháp Jacques Chirac rời phiên họp
sớm. Thủ tướng Đức Schoeder giữ im lặng. Thủ tướng Tây Ban Nha thì báo cáo lại
là buổi họp “không có gì hấp dẫn”. Những động thái này được Meyer đánh giá là
“không hay đối với Kiev”[11]. Điều duy nhất mà EU có thể làm cho
Ukraina là coi Ukraina như một nước láng giềng và điều này rõ ràng không đáp
ứng tham vọng muốn gia nhập EU và lập “khu vực kinh tế tự do” với EU của
Ukraina. Theo đánh giá của giới quan sát EU thì Ukraina đã đặt vấn đề gia nhập
EU và NATO trong bối cảnh không thuận lợi. Trước hết đây là giai đoạn EU đang
phải vật lộn với đợt mở rộng lớn nhất trong lịch sử với việc gia nhập của
10 thành viên từ Đông Âu. Thổ Nhĩ Kỳ còn đang xếp hàng chờ đợi. Trong khi đó,
Ukraina là một nước với dân số khá đông so với kích cỡ EU (gần 50 triệu dân),
lại là nước có nền kinh tế nghèo nàn, có thể sẽ lại thêm một gánh nặng cho EU
nếu gia nhập. Các nhà lãnh đạo “thân Nga” của EU như Bỉ, Pháp, Đức- lo ngại
rằng việc vội vã chiêu nạp Ukraina có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ
với Nga, đặc biệt nếu Ukraina gia nhập NATO. Thủ tướng Luxembourg, khi đó là
chủ tịch luân phiên EU đã nói trong tuyên bố tháng 12/2005 của ông “Tôi hiện
chưa chấp nhận nguyện vọng của Ukraina xin trở thành thành viên EU”[12].
Trong khi đó, mối quan hệ giữa
Ukraina với Nga sau năm 2004 vẫn không ổn định. Một mặt, Nga vẫn nắm giữ
việc kiểm soát Sevastopol do liên quan đến Hạm đội biển Đen, và tiếp tục đặt
các đường ống dẫn dầu qua Ukraina để tới châu Âu. Nga và Ukraina vẫn được coi
là ràng buộc nhau nhiều về kinh tế, chưa nói đến các mối liên hệ lịch sử văn
hóa tộc người gắn bó giữa hai bên. Mặt khác, việc Ukrain mong muốn thoát khỏi
ảnh hưởng của Nga và giữ định hướng thân phương Tây khiến nhiều người lo ngại
cho sự đúng đắn của chiến lược đối ngoại của quốc gia mới giành độc lập này.
Trong bài báo gần đây, Tamerlan
Vahabov đã xem xét yếu tố Ukraina trong cuộc chơi giữa các cường quốc Mỹ, EU và
Nga. Tác giả này cho rằng Mỹ đã bỏ qua hai yếu tố quan trọng mà Ukraina rất cần
là đảm bảo an ninh quốc phòng và an ninh năng lượng, điều mà trên thực tế
Ukraina lại phụ thuộc nhiều vào Nga. Ngày 6-6-2010, Quốc hội Ukraina phê chuẩn
nghị quyết “Những đảm bảo thực tế giữ cho Ukraina không có hạt nhân”[13]. Ngày 24-4-2010, Ủy ban Chính sách Đối
ngoại và An ninh, một tổ chức phi chính phủ đặt tại Ukraina, tổ chức hội thảo
“Diễn đàn An ninh quốc tế: Từ An ninh của Ukraina tới An ninh châu Âu: những
thách thức của thế kỷ XXI” ở Lvov. Tới dự diễn đàn có các trí thức, đại biểu quốc
hội Ukraina, và các tổ chức. Chủ đề chính được bàn tới trên diễn đàn là chính
sách không liên kết của Ukraina. Nhiều chuyên gia cho rằng Ukraina không cần
thiết phải gấp rút trở thành thành viên NATO mà cần xây dựng một quan điểm mới
về an ninh quốc gia[14]. Các đại biểu cam kết sẽ đề xuất quan
điểm mới này và trình lên tổng thống Yanukovich. Sau khi Yanukovich lên nắm giữ
cương vị tổng thống Ukraina năm 2010, Ukraina đã tuyên bố thái độ trung hòa đối
với các thiết chế an ninh trong khu vực như NATO và CSTO. Yanukovich dường như
đang cố gắng giữ vai trò cân bằng giữa Mỹ và Nga trong chính sách đối ngoại của
mình. Trong hội nghị thượng đỉnh về năng lượng hạt nhân ở Washington tháng 4
năm 2010, Ukraina tuyên bố họ sẽ phá bỏ các kho hạt nhân với uran đã làm giàu.
Sau khi trúng cử tổng thống, chuyến công du nước ngoài đầu tiên mà Yanukovich
thực hiện là viếng thăm Brussel chứ không phải tới Moskva như nhiều người mong
đợi. Tuy nhiên, sau đó Ukraina đã ký lại hiệp định với Nga về kéo dài thời hạn
cho thuê cảng Sevastopol tới năm 2042 cho Hạm đội biển Đen. Quốc hội Ukraina
cũng đã nhanh chóng thông qua hiệp định này, thậm chí vi phạm nguyên tắc phê
chuẩn khi đưa tên một số người vắng mặt vào danh sách bỏ phiếu để đạt
được đồng thuận[15]. Theo cựu Bộ trưởng Bộ ngoại giao Boris
Tarasyuk, Ukraina vẫn đang đối mặt với vấn đề phân cực chính trị và định hướng
đối ngoại của họ phụ thuộc vào ai sẽ là siêu cường thế giới. Volodimyr Ohryzko,
một cựu Bộ trưởng ngoại giao khác thì cho rằng nếu Ukraina đi theo hướng không
liên kết thì sẽ là một gánh nặng tài chính với nước này vì phải có nguồn tài
chính đảm bảo an ninh quốc phòng độc lập. Do vậy, cho đến hiện nay, ưu tiên
chính sách đối ngoại của Ukraina vẫn chưa hẳn đã được định hình rõ rệt và vẫn
xoay xung quanh Mỹ, EU, Nga. Khoảng cách địa lý không cho phép Mỹ xác lập một
vị trí chủ chốt trong đối ngoại với Ukraina, EU hiện đang gặp khủng hoảng với
các vấn đề nội khối, Nga lại đang hiện lên với vai trò ngày càng được củng cố
trong khu vực. Đặc biệt, quan hệ Mỹ-Nga đang lên kể từ khi Nga và Mỹ đã ký được
Hiệp ước giải trừ vũ khí chiến lược, Nga cho phép Mỹ sử dụng lãnh thổ làm bàn
đạp cho các cánh quân vào Afganistan, Nga tăng cường sức ép với Iran về vấn đề
hạt nhân khiến cho “thách thức chính của Obama sẽ có khả năng chuyển thành hợp
tác bền vững do sự nhượng bộ của Nga”[16].
Đối với vấn đề an ninh năng
lượng, ngày 22-4-2010, Tổng thống Nga và Ukraina đã ký Hiệp ước Kharkov về việc
gia hạn cho Nga thuê cảng Sevastopol đến năm 2042 và một hiệp ước đổi lại về
việc Nga giảm 30% giá khí đốt cho Ukraina. Việc Mỹ và châu Âu không đầu tư
vào kinh tế Ukraina và sự phụ thuộc của nước này về năng lượng đối với Nga làm
cho Ukraina phải xem lại ưu tiên định hướng phương Tây trong chính sách đối
ngoại của mình. Tuy nhiên theo bình luận của các chuyên gia thì dường như
Ukraina vẫn phải chịu thiệt trong Hiệp ước này vì giá ga mà Nga giành cho
Ukraina là 230 đola/m3, tương đương với giá ga mà EU được hưởng, mặc dù EU
chẳng hề phải nhượng bộ Nga trong vấn đề quan trọng như Sevastopol[17].
Ukraina hiện đang rất cần đầu
tư của Mỹ và EU vào việc hiện đại hóa hệ thống khai thác và cung cấp năng lượng
để không còn phải phụ thuộc vào Nga. Trong khi đó, hệ thống năng lượng, phân
phối khí đốt và xuất khẩu khí đốt của Ukraina hiện do công ty nhà nước quản lý
là chủ yếu (Naftohaz Ukraininy). Công ty này cũng quản lý hệ thống đường ống
dẫn của Nga qua Ukraina. Theo tuyên bố của Brussel ngày 23-3-2009 về hiện đại
hóa hệ thống dẫn khí đốt của Ukraina, hệ thống này phải được phân chia làm
nhiều bộ phận mang tính tự hạch toán, mỗi bộ phận phải chịu trách nhiệm về
chuyên môn của mình. Quan điểm của EU là tái cơ cấu và tổ chức lại Naftohaz sẽ
giúp quản lý và giám sát dễ dàng hơn, hiệu quả và minh bạch hơn. Và như vậy
cũng là dễ giám sát Hiệp ước Kharkov ký giữa Ukraina và Nga, đây cũng là điều
kiện để EU có thể đầu tư vào công ty này. Theo tuyên bố Brussel, Ukraina đã đưa
ra một vài cam kết về chính sách minh bạch và công khai đối với các nhà đầu tư
vào hệ thống dẫn khí đốt. Ukraina cũng phải chịu trách nhiệm thông báo các
thông tin về kỹ thuật và tài chính đối với các nhà đầu tư.
Với những hứa hẹn từ phía EU,
các chuyên gia vẫn cho rằng Ukraina cần thực thi một chính sách thông minh
trong quan hệ với Nga. Bản thân EU và Nga hiện cũng có nhiều ràng buộc với nhau
về kinh tế, do đó “Ukraina cần hội nhập với EU nhưng vẫn phải duy trì quan hệ
ổn định với Nga. Điều này làm tăng thêm hình ảnh của Ukraina là một đối tác
năng lượng và thương mại đáng tin cậy”[18].
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng
hiện nay Ukraina vẫn đang lúng túng trong việc xác định ưu tiên trong chính
sách đối ngoại và vẫn đang tìm kiếm cho mình một “điểm tựa” vững chắc về an
ninh quốc phòng và an ninh năng lượng. Trong bối cảnh như vậy, châu Á hiện vẫn
chưa phải là một hướng ưu tiên trong chính sách của Ukraina. Tuy nhiên, trước
đề xuất gần đây cho rằng Ukraina nên phát triển chính sách trung lập thay bằng
dựa dẫm vào các cường quốc, trong thời gian tới, Ukraina sẽ đa dạng hóa các mối
quan hệ nhằm củng cố hơn nữa hình ảnh của mình trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
Yaroslav Bilinsky (1999). Endgame
in NATO’s enlargement: the Baltic States, NATO and Ukraine. London,
Westport, CT: Praeger.
Anatol Lieven (1999). Ukraina
and Russia: a fraternal rivalry. Washington DC: US Institute of Peace
Press.
David Albright và Semyen
Appatov (cb) (1999). Ukraina and European Security. Basingstoke:
Macmillan.
Nancy Popson (2002). Where does
Europe end? The Wilson Quarterly, Vol 26, No 3 (Summer 2002), pp. 13-19
Ann Lewis (2002). The EU and
Ukraine: neighbours, friends, partners? London: The Federal Trust. 319p
Meyer, M. (2005), Ukraine:
Stranded between Two World? World Policy Journal, Vol.22, No 1.
Moroney, J.D.P, Kuzio T &
Molchanov (2002). Ukrainian Foreign and Security Policy: Theoretical and
Comparative Perspectives. Praeger, Westport, CT, and London. 298 pp.
Vahabov Tamerlan (2010).
Ukraine: A Challenge for US, EU & NATO Regional Policy. Caucasian Review
of International Affairs, Columbia University. Vol 4 (3)- Summer 2010
[1]Moroney, J.D.P, Kuzio T & Molchanov. Ukrainian
Foreign and Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives.
Praeger, Westport, CT, and London, 2002. 298 pp.
[2]Wolczuk R. (2004). Book review “Ukrainian Foreign
and Security Policy: Theoretical and Comparative Perspectives”. Europe-Asia
Studies. Vol 56, No2 (Mar., 2004), p.322
[5]Anatol Lieven (1999). Ukraina and Russia: a
fraternal rivalry. Washington DC: US Institute of Peace Press. P.8
[6]David Albright và Semyen Appatov (cb)
(1999). Ukraina and European Security. Basingstoke: Macmillan, p.133
[7]Mặc dù Ukraina là một trong ba quốc gia thành lập
SNG năm 1991 nhưng Ukraina sau đó đã không phê chuẩn Hiến chương SNG nên đã
không được coi là thành viên của SNG
[8]Nancy Popson (2002). Where does Europe end? The
Wilson Quarterly, Vol 26, No 3 (Summer 2002), pp. 13
[13]Kyiv post “Parliament proposes drafting
international documents to strengthen security assuarances to Ukraine”
Interfax, http://www.kyivpost.com
[14]“International Security Forum Resolution
Adopted”, Council for Foreign and Security Policy, http://www.cfsp.org.ua/en/about-cfsp/91-2010-06-09-34-01
[15]Dead Souls voted for Yanukovich/Medvedev pact,
Pravda http://www.pravda.com.ua/news/2010/04/27/4977472
[16]Vahabov Tamerlan. Ukraine: A Challenge for US, EU
& NATO Regional Policy. Caucasian Review of International Affairs, Columbia
University. Vol 4 (3)- Summer 2010, p.298
No comments:
Post a Comment