Posted by chepsuviet
on 11/02/2014
Không chỉ Trung Quốc ngạc
nhiên, mà dường như còn cả Washington mà Mascơva cũng bất ngờ trước mức độ phản
ứng nhanh của Hà Nội đối với các sáng kiến vì hoà bình của Mỹ (79). Đương nhiên
một người hãnh tiến như Lê Duẩn không bao giờ mất mặt đi bàn với Hồ Chí Minh về
một quyế định mà trước đây ông ta đã phản đối đến cùng, nhất là sau khi đã ép
buộc Hồ Chí Minh phải chấp nhận cuộc tổng tấn công mà Lê Duẩn tin chắc sẽ đem
lại cho ông thắng lợi quân sự vẻ vang nhưng kết cục lại ngược lại. Thế thì dám
chủ động quyết định đánh, cũng phải tự động quyết định hòa đàm mà thôi.
So với “công thức San Antonio”
mà Johnson đã đưa ra ngày 29 tháng 9 năm 1967 thì đề nghị lần này của Mỹ không
khác gì nhiều (Mỹ đồng ý chấm dứt tấn công bằng không quân và hải quân vào miền
Bắc, miền Bắc tiếp tục tiếp viện cho miền Nam như thường lệ và hai bên ngồi vào
đàm phán). Không phải có chiến dịch Mậu Thân mới buộc được Mỹ ngồi vào bàn đàm
phán. Trước khi diễn ra chiến dịch Mậu Thân, trong năm 1967 đã diễn ra hàng
loạt cuộc vận động ngoại giao của nhiều đối tượng trung gian chuyển đến Việt
Nam ý muốn thương lượng của Mỹ mà quan trọng nhất là vai trò của Liên Xô nhưng
không thành.
Tình hình bế tắc trên chiến
trường và nhiệm kỳ tranh cử Tổng thống đến gần buộc phía Mỹ phải đàm phán. Cũng
như Việt Nam, thái độ của Mỹ vẫn là phải thương lượng trên thế mạnh và đó là
thực tế đã diễn ra ngay cả khi Hội nghị Pari diễn ra, tuy nhiên, rõ ràng nếu để
Mỹ ngồi xuống đàm phán với Việt Nam thì không cần có cuộc Tổng tấn công Tết Mậu
Thân. Còn muốn Mỹ nghiêm chỉnh đàm phán thì những nỗ lực của Tết Mậu Thân là
không đủ. Bên bị thuyết phục phải ngồi vào đàm phán sau Mậu Thân lại chính là
lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trước đó, tại hội nghị Trung
ương 12 năm 1965, Lê Đuẩn chỉ rõ điều kiện để đàm phán: “chưa thể ngồi lại được
chừng nào chưa làm tan rã được ngụy quân và đập tan được ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ” (80 – trang 594) và nêu ra thời cơ để đàm phán là “…những thắng lợi to
lớn và giòn giã hơn nữa của chúng ta trên chiến trường, là tình thế của địch
khốn quẫn hơn nữa, ý chí xâm lược của chúng giảm sút hơn nữa. Thời cơ đó cũng
còn là sự nhất trí về quan điểm đánh và đàm trong các đảng, các nước xã hội chủ
nghĩa anh em nữa” (81 – trang 595).
Nhưng sau khi cuộc Tổng tấn
công đã diễn ra, những điều kiện đề ra trước đây như quân đội Sài Gòn tan rã,
nhất trí quan điểm về đánh và đàm giữa các Đảng Liên Xô và Trung Quốc,… đều
chưa có gì thỏa mãn thì đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vẫn phải chấp nhận
cùng Mỹ ngồi vào đàm phán. Bởi vì đánh nhanh không được mà đánh chậm cũng khó
khăn, đàm phán là lối thóat duy nhất trước mắt.
Có luận điểm cho rằng Việt Nam
đàm phán với Mỹ sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân là thuận lợi hơn vì tinh thần
chiến đấu của phía Mỹ đã suy sụp, nhưng thực tế đối tượng suy yếu tinh thần
chính là chính quyền Johnson. Đàm phán với họ có lợi hơn là tấn công Mậu Thân
đẩy họ lui khỏi chính trường để Việt Nam phải trả giá nặng nề khi đàm phán với
chính quyền Nicxon chủ trương diều hâu hơn nhiều.
Một cơ hội ngoại giao quan
trọng đã mất đi khi Việt Nam nghe theo sự thúc đẩy của Trung Quốc không đàm
phán sớm và sau đó tiến hành tổng tiến công. Quyết định của Việt Nam góp phần
quan trọng làm Hămphrây là người chủ trương chấm dứt chiến tranh, thất cử trong
cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Sai lầm này đã đem lại lợi thế cho Trung Quốc và góp
phần đẩy Liên Xô vào thế bị động với Mỹ. Chủ trương tổng tấn công của nhóm lãnh
đạo giáo điều Lê Duẩn đã mở đường cho Nicxon lên cầm quyền, tạo tiền đề ngọai
giao quan trọng cho Trung Quốc tiếp xúc với Mỹ, liên kết chống Liên Xô.
Năm 1979, Sách Trắng của Bộ
Ngoại giao Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cay đắng kết luận: “Sau khi
Níchxơn kết thúc chuyến đi thăm Trung Ouốc, Kítxinhgiơ nói với các nhà báo ngày
1 tháng 3 năm 1972 rằng từ nay Níchxơn và bản thân y “chỉ còn việc nhìn về
Mátxcơva và nghiền nát Việt Nam”.
“Từ tháng 4 năm 1972, Mỹ ném
bom lại và thả mìn phong toả các cảng miền bắc Việt Nam và đánh phá ác liệt
miền Nam Việt Nam nhằm đối phó với cuộc tiến công chiến lược mùa xuân năm 1972
của nhân dân Việt Nam, cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Bước
phiêu lưu quân sự này chính là hậu quả rõ ràng của sự đồng lõa giữa những người
cầm quyền Trung Quốc và Níchxơn.” Nhưng sự cấu kết xảo quyệt này không thể
thành công nếu không nhờ trước đó Việt Nam cự tuyệt đàm phán và đánh lớn, giúp
cho đảng Cộng Hòa thắng cử đưa Nixon vào ghế Tổng thống,
Muốn làm ăn với Nichxơn, Trung
Quốc quay lại “ép Hà Nội đi vào một giải pháp thoả hiệp với Mỹ. Phía Trung Quốc
dùng “củ cà rốt” viện trợ: nếu năm 1968 vì phản đối Việt Nam đàm phán với Mỹ họ
đã giảm kim ngạch viện trợ cho Việt Nam thì năm 1971 và năm 1972, để lôi kéo
Việt Nam đi vào chiều hướng của Bắc Kinh thoả hiệp với Mỹ, họ đã dành cho Việt
Nam viện trợ cao nhất của họ so với những năm trước đó. Đây cũng là thủ đoạn
nhằm che đậy sự phản bội của họ nhằm xoa dịu sự công phẫn của nhân dân Việt
Nam. Đi đôi với tăng thêm viện trợ là sự thúc ép liên tục để Việt Nam chấp nhận
giải pháp của Mỹ (82).”
Trung Quốc nhân nhượng Mỹ khiến
Liên Xô cũng phải quay sang bắt tay thương lượng với Mỹ trong thế bị động. Chia
rẽ trong phe xã hội chủ nghĩa ngày càng trầm trọng. Cuối cùng người chịu thiệt
hại năm 1972 lại chính là nhân dân Việt Nam đang lâm vào chiến trận khốc liệt
trong khi bạn bè sau khi xui ta chiến đấu lại cùng tranh nhau bắt tay với kẻ thù
và đấu tranh với nhau gay gắt.
Sau khi lãnh đạo Bắc Kinh mừng
rỡ khen ngợi các chiến dịch đàn áp nhóm xét lại chống Đảng diễn ra ở Hà Nội thì
Trung Quốc tỏ ra rất tức giận vì đã ngăn đe trước mà cuộc Tổng tấn công vẫn xảy
ra. Ngày 29 tháng 6, năm 1968, trong cuộc trao đổi giữa Chu Ân Lai và Phạm Hùng
tại Bắc Kinh sau cuộc tấn công, Chu đã phê phán Việt Nam: “Rất tốt là hôm nay
các ông cho chúng tôi biết rõ, rằng các ông đang chuẩn bị cho một cuộc chiến
tranh kéo dài. Những cuộc tấn công gần đây của các ông vào các thành phố chỉ
nhằm mục đích cản trở lực lượng của kẻ thù, giúp công tác giải phóng các khu
vực nông thôn, huy động lực lượng lớn ở các khu đô thị. Tuy nhiên, tất cả đều
không mang tính quyết định. Bọn xét lại Liên Xô tuyên bố rằng đánh vào Sài Gòn
thực sự là tổng tấn công, rằng chiến thuật lấy nông thôn bao vây thành thị là
sai và tiến hành chiến tranh lâu dài là sai. Theo ý kiến của chúng, chỉ có tấn
công chớp nhoáng vào các thành phố lớn là đòn quyết định. Nhưng nếu các ông làm
[như thế], Hoa Kỳ sẽ vui mừng, khi họ có thể tập trung lực lượng để phản công,
do đó gây nên sự tổn thất lớn hơn cho các ông (…) Khi các ông chấp nhận đàm
phán với Mỹ, đặt các ông vào thế thụ động. Các ông bị Liên Xô cho vào bẫy (…)
Các ông chấp nhận việc ném bom một phần và đồng ý nói chuyện với họ, đã làm cho
vị thế hiện tại của họ tốt hơn so với năm 1966 và 1967. Mặc dù các ông vẫn duy
trì các nguyên tắc của mình trong đàm phán, các ông đã giảm khó khăn của họ
trong cuộc bầu cử năm nay. Đây là lỗi lầm của Liên Xô. Từ lâu, Liên Xô có những
người làm tay sai cho Mỹ và giúp Mỹ chống lại những người làm cách mạng trên
thế giói …. (83). Kết tội cho Lê Duẩn “xét lại” và theo đuôi Liên Xô là thái độ
từ bỏ vị thế đồng minh của Trung Quốc với lãnh đạo Việt Nam. (84)
Liên Xô rõ ràng còn tức tối
hơn. Trong khi Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam và đề nghị Việt Nam
tiến hành đàm phán, việc bắt giữ những người quan hệ trực tiếp với Liên Xô, cắt
đứt tai mắt của Sứ quán Liên Xô ở Hà Nội là tín hiệu rõ ràng của Đảng Lao động
Việt Nam cho Mascơva rằng không vì sức ép bên ngoài mà Việt Nam chấp nhận đàm
phán. Tài liệu của Lãnh sự Anh tại Hà Nội được công khai vào giai đoạn
1997-1998 cho thấy ngày 22 tháng 8, Tổng lãnh sự John Colvin, báo cáo rằng
người Nga đã “dự báo về một cuộc cải tổ trong Đảng Lao động không có lợi cho
họ” (85). Phản ứng trước việc tháng 3 năm 1968, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công
bố luật lệ trừng phạt hoạt động phản cách mạng, Đại sứ quán Liên Xô cho rằng
luật lệ này “đã làm giảm nghiêm trọng sự tiếp xúc của chúng tôi với công dân
Việt Nam”… “Phía Liên Xô nhận thấy những người cộng sản Việt Nam hoá ra là
những người đồng minh không tin cậy và ích kỷ, thường gây ra những khó khăn cho
các đồng chí Xô Viết (86).”
Đánh giá về chiến dịch Mậu
Thân, “các nhà nghiên cứu của Đảng cộng sản Liên Xô tại Hà Nội đã kết luận
rằng: “Các đòn chiến tranh và các cuộc đấu tranh chính trị của các đồng chí
Việt Nam ở miền Nam trong mùa khô thứ ba đã không dành được những kết quả tối
đa như đã tính toán. Chính phủ và quân đội Sài Gòn không hề bị xoá sổ, về cơ
bản Mỹ vẫn giữ được chỗ dựa, cơ sở chính trị ở miền Nam Việt Nam; các điều kiện
để Mặt trận dân tộc giải phóng và các đồng minh giành chính quyền không được
tạo ra và Mỹ đã dành được những khả năng tương đối lớn trong việc mặc cả về chính
trị (87).” Rõ ràng, giải pháp đàn áp nội bộ kết hợp tấn công trên chiến trường
đã không đạt được mục tiêu tái lập cân bằng quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô,
Trung Quốc.
Sự rạn nứt cùng lúc cả quan hệ
của Bắc Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc là kết quả không mong đợi của nhóm
giáo điều mới dành toàn quyền ở Hà Nội. Cả Trung Quốc – đồng minh tư tưởng và
Liên Xô – đồng minh vật chất cảm thấy mình bị Hà Nội lừa dối.
Xưa nay, trong chiến tranh
Triều Tiên, chiến tranh Đông Dương,… các lực lượng đồng minh đều có sự tham
khảo xin ý kiến lẫn nhau. Trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh, các đối thủ chính
trị còn thông báo cho nhau các ý định chiến tranh quan trọng (như Trung Quốc
thông báo cho Mỹ khi đánh Việt Nam sau này). Sự kiện Vịnh Bắc bộ, cuộc Tổng
tiến công Mậu Thân một lần nữa tỏ cho các đồng minh thấy thái độ coi thường,
thiếu tin cậy của Việt Nam.
Điều đó dẫn đến một hậu quả
khác trong tương lai là Trung Quốc và tiếp theo là Liên Xô bắt đầu đẩy mạnh các
hoạt động liên hệ, trao đổi với Mỹ sau lưng Việt Nam. Quá trình này dẫn đến
chuyến thăm của Nixon sang Trung Quốc và Liên Xô đầu năm 1972, gây tác động
tiêu cực và gây nhiều khó khăn cả về chính trị, ngoại giao và tâm lý cho Việt
Nam (88) đúng vào lúc quân đội Mỹ gây mạnh sức ép mạnh với Việt Nam.
Thành công chính trị phải trả
giá nặng nề trên chiến trường. Không kể đến hi sinh to lớn của nhân dân trên
mọi vùng đô thị miền Nam (riêng ở Huế, trong đợt tấn công thứ 2, ước lượng
khoảng 3-6 ngàn dân thường bị giết) (89), cũng tại Huế “hỏa lực Mỹ đã biến 80%
thành phố thành gạch vụn (90)”, tỉnh lỵ Bến Tre, thành phố Mỹ Tho cũng bị tàn
phá nặng nề.
Ước lượng từ bên ngoài cho rằng
trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân, quân giải phóng mất khoảng 80%
lực lượng chiến đấu, với khoảng 50 ngàn chiến sỹ hi sinh (91). Số liệu của Việt
Nam cho biết 111.360 cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang và hàng vạn quần chúng
thương vong trong năm 1968 (92 – trang 262). Riêng ở Nam Bộ, “thương vong của
ta trong năm này cao hơn số thương vong của các năm từ 1961 đến 1970 cộng lại
(93 – trang 278)”.
Hàng loạt cơ sở, quần chúng
cách mạng được tổ chức lâu dài trong nội thành bị bại lộ và đàn áp. Nhiều hệ
thống biệt động, kể cả tình báo chiến lược bị địch triệt phá. Tổng kết của bộ
Nội vụ (bộ Công an) cho biết: “lực lượng cách mạng nói chung, lực lượng an ninh
nói riêng nhất là an ninh xã ấp bung ra hoạt động vũ trang công khai dành quyền
làm chủ nên bị lộ lực lượng. Lúc đầu kẻ địch bị động đối phó, nhưng sau đó
chúng tập trung phản kích quyết liệt gây cho ta những thiệt hại đáng kể. Lực lượng
an ninh các địa phương bị tổn thất lớn. Nhất là an ninh các tỉnh miền Tây;
nhiều ban an ninh xã, đội an ninh vũ trang bị hy sinh; bị bắt toàn bộ. Lực
lượng an ninh hoạt động hợp pháp trong thành phố, thị xã bị lộ phải trốc ra
khỏi địa bàn; nhiều nơi, cơ sở an ninh bị vỡ hoàn toàn, phải mất một thời gian
dài mới khôi phục lại được (94 – trang 363).”
Về phương diện quân sự, tại hội
thảo tháng 3 năm 1986, tham luận của Cục khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu – Bộ
Quốc phòng nhận định: cuộc Tổng tiến công “không tạo được một bước phát triển
đi lên của chiến tranh cách mạng miền Nam, không thay đổi được cục diện chiến
trường có lợi cho ta mà làm cho cục diện xấu hơn năm 1968. Cũng có thể nói rằng
nó đã tạo nên một bước tạm thời đi xuống của cục diện chiến trường miền Nam (95
– trang 179).”
Thượng tướng Lê Ngọc Hiển trong
Tham luận “Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển khai đòn tiến công chiến lược
Mậu Thân 1968”, cho biết: “sau đợt 2, vào khoảng tháng 6 năm 1968, Bộ Chính
trị, Quân Uỷ trung ương đã quyết định chuyển hướng tiến công chiến lược từ
thành phố về nông thôn, miền núi” (được ghi trong biên bản cuộc hội ý của các
lãnh đạo chủ chốt) (96 – trang 177). Nhưng chủ trương này đã không được thực
hiện hoặc không thực hiện được trong bối cảnh thoái trào lúc đó.
Vì thế, tại các vùng nông thôn,
các cuộc nổi dậy của nông dân ở nhiều địa phương ngay từ đợt đầu đã rất thành
công, nhưng do phần lớn lực lượng quân sự của quân giải phóng phải dồn sức vào
các cuộc chiến đấu hao người tốn của tại các đô thị, thành quả của các cuộc nổi
dậy ở nông thôn không được phát huy.
Trong các cố gắng tấn công trở
lại vào đô thị sau đó, vùng nông thôn ven Sài Gòn, Đồng Bằng Sông Cửu long và
Duyên hải Trung bộ, Trị Thiên vốn là chỗ dựa ổn định lâu nay của lực lượng quân
giải phóng đã bị bỏ ngỏ cho địch quay lại “bình định cấp tốc” và tiêu diệt
chính quyền cơ sở của cách mạng.
Từ giữa năm 1968 trở đi, chính
quyền Sài Gòn dần dần lấy lại được các địa bàn bị mất trong Tổng tấn công, khôi
phục lại các tuyến giao thông quan trọng. Suốt trong các năm 1969-1970 thế trận
chiến tranh nhân dân ở cả ba vùng chiến lược đều sa sút, phong trào quần chúng
chịu tổn thất nặng nề (97 – trang 178-179). Như các bài học, học mãi không
thuộc về khởi nghĩa non trong lịch sử cách mạng Việt Nam, giữa ước muốn bốc đồng
và thực tế phũ phàng là máu xương, tính mạng của nhân dân và cán bộ.
Đại tá Trọng Nghĩa nhận xét:
“cuộc chiến đấu đẫm máu đã không dành được chiến thắng sau một ngày đêm như kế
hoạch, mà chiến tranh đã kéo dài 8 năm sau. Đòn đánh vào đô thị đầu não không
hạ gục đối thủ mà chiến tranh sau đó lan rộng ra hàng loạt chiến trường mới
trên cả Đông Dương. Cái giá nặng nề của chiến dịch này còn phải trả mãi đến sau
này.”(98)
Có lẽ Huế là ví dụ điển hình
cho khoảng cách giữa hoang tưởng bốc đồng và thực tế tàn nhẫn. Trên diễn đàn
Hội nghị trung ương 15, Lê Duẩn hùng dũng tưởng tượng: “thành phố Huế có 15 vạn
dân, có thể có 9 vạn người cầm súng đánh nó thì khác hẳn. Đây không phải khởi
nghĩa ở đô thị không thôi, mà trong lúc đó ta còn khởi nghĩa ở nông thôn nữa.
Vùng nông thôn nào chưa giải phóng, ta khởi nghĩa. Đây là hai mũi nhọn lớn là
quân sự công kích vào đô thị và khởi nghĩa toàn bộ. Lúc này khẩu hiệu là công
nông binh liên hiệp, tất cả lực lượng phản chiến sẽ ngả về ta (99)”
Nhưng trong thực tế lực lượng
quần chúng không nổi dậy và lực lượng vũ trang đã phải rút lui thảm hại như
tướng Trần văn Quang kể: khi quyết định rút lui khỏi Huế, Bộ tư lệnh quân khu
Trị Thiên – Huế “chỉ nghĩ làm sao bảo toàn lực lượng các đơn vị chiến đấu (các
trung đoàn 3,6,9,1 và các đơn vị đặc công, biệt động bộ đội địa phương) không
bị địch bao vây tiêu diệt. Ngòai ra, không còn nghĩ được biện pháp nào để bảo
toàn cơ sở quần chúng, không kịp nghĩ gì đến phương trâm, phương pháp đấu
tranh, càng không nghĩ được là sau khi rút ra phải làm gì và làm thế nào; ngoài
việc lo sao cho bộ đội không bị đói”.
Tệ hại hơn nữa là sự khác biệt
giữa hoang tưởng và thực tế ở Sài Gòn, trọng điểm của cuộc Tổng tấn công. Tại
hội nghị Trung ương 14 Lê Duẩn vẽ ra kịch bản: “Nếu Sài Gòn bị sập một cái nửa
triệu người, vài ba chục vạn người cầm súng cho ta đánh nó thì lắm vấn đề lớn
lắm, không lường hết được. 30 vạn người cầm súng đánh nó một thời gian cả trong
cả ngoài đều chiến đấu, lớn vô cùng, sức mạnh này lớn vô cùng,..
Tuy nhiên khi lâm trận, quần
chúng nhân dân ở những nơi xảy ra chiến sự tuy có chủ động giúp đỡ, hỗ trợ quân
giải phóng nhưng không có 30 vạn người cầm súng theo Lê Duẩn đứng lên khởi
nghĩa, tương quan lực lượng thực tế quá chênh lệch. Hãng thông tấn AFP đưa tin
ngày 3 tháng 2 năm 1968: “tại Sài Gòn lúc đó, có khoảng 3,5 ngàn quân giải
phóng trang bị nhẹ đối đầu với 500 ngàn quân địch gồm 15 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu
đoàn Sài Gòn, 34 ngàn cảnh sát dã chiến trang bị nặng, có không quân, cơ giới
chi viện.” Kết quả là “lực lượng chiến đấu trong thành phố trở nên đơn độc, bị
bao vây bốn mặt, bị hao tổn nặng nề: 80% chiến sĩ biệt động bị hy sinh và bị
bắt, 50% lực lượng các tiểu đoàn mũi nhọn bị thương vong; một số tiểu đoàn khi
rút ra chỉ còn lại 1/5, 1/10 quân số. Cơ sở nội thành bị bộc lộ và tổn thất
nhiều,… (100)
Ngày 23 tháng 4 năm 1994, Bộ
Chính trị đánh giá: “mặc dù có những khuyết điểm, cuộc tổng tấn công và nổi dậy
Tất Mậu Thân (1968) vẫn có vị trí to lớn. Mà nhất là đánh bại ý chí xâm lược
của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh. Nhưng sau đó, ta
chuyển chậm; chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị không còn điều
kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều tổn thất, khó
khăn.” Cách đánh giá này không công bằng. Chiến dịch này không phải chỉ sai do
chuyển hướng chậm, tiếp tục đánh thêm mà đã sai ngay từ khi xác định mục tiêu
và cách thức tiến hành!
Thực tế mục tiêu chính Hội nghị
trung ương 15 đề ra không phải là “đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ” mà là “giành
được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và
khởi nghĩa của ta cuối cùng thành công ở các đô thị lớn. Địch bị thất bại đến
mức không còn gượng dậy được, ý chí xâm lược của chúng bị đè bẹp, phải chịu
thua, buộc chúng phải thương lượng và phải kết thúc chiến tranh theo những mục
tiêu và yêu cầu của ta”.
Để thực hiện mục tiêu trên, Hội
nghị Trung ương 15, đề ra các nhiệm vụ cụ thể là: “về quân sự tiến hành tổng
công kích (kết họp với tổng khởi nghĩa) đến thắng lợi và phải nhanh chóng tăng
cường lực lượng vũ trang cách mạng, về chính trị: phát động quần chúng nổi dậy
tổng khởi nghĩa cho đến thành công, đập tan ngụy quyền và các tổ chức chính trị
phản động khác, xây dựng chính quyền cách mạng. Về công tác ngụy vận, địch vận:
làm tan rã quân ngụy, gây phong trào khởi nghĩa trong ngụy quân, gây phong trào
phản chiến trong quân Mỹ và quân chư hầu. Về hoạt động quốc tế và đấu tranh
ngoại giao: tích cực phục vụ cho tổng công kích và khởi nghĩa giành được thắng
lợi”.
Điểm lại, không một nhiệm vụ
nào nêu trên đạt được dù toàn quân, toàn dân đã thực hiện chỉ đạo của Đảng “tập
trung mọi nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng để giành thắng
lợi”. Hội nghị 15 cũng mô tả một kịch bản không thành công là “ta tuy giành
được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng địch tập trung và tăng thêm lực
lượng từ ngoài vào, giành lại và giữ được những vị trí quan trọng, ổn định được
các thành thị lớn, nhất là Sài Gòn – Gia Định, dựa vào các căn cứ lớn để tiếp
tục chiến đấu với ta” (101). Thực tế kịch bản này đã diễn ra đúng như dự tính
nhưng các nhà chỉ huy vẫn cố đấm ăn xôi, tiếp tục tấn công khiến cho khả năng
thất bại được coi là khó xảy ra, cuối cùng cũng đến: “Mỹ động viên và tăng thêm
nhiều lực lượng, mở rộng “chiến tranh cục bộ” ra miền Bắc, sang Campuchia và
Lào hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng”. Rõ ràng
tình trạng xấu nhất đã thành hiện thực với các tính toán chiến lược sai lầm.
Đa số các ý kiến đánh giá, kể
cả những người trong cuộc đã tích cực ủng hộ kế hoạch Tổng tấn công từ đầu,
cũng không tán thành các đợt tấn công tiếp theo sau khi đánh vào các thành phố
lớn đã không thành công. Trần Bạch Đằng, người củng cố ý tưởng cho Lê Duẩn về
khả năng nổi dậy khởi nghĩa của nhân dân các thành phố lớn đã viết: “Sứ mệnh
của Mậu Thân căn bản hoàn thành với đợt 1. Ở đây bệnh cay cú dẫn chúng ta đi
xa, và do đó qua đợt 2, vùng nông thôn giải phóng bị thu hẹp, và đến đợt 3 thì
trên thực tế, chúng ta để mất gần hết vùng giải phóng (102).” Lê Đức Thọ người
chịu trách nhiệm tổ chức thanh trừng nội bộ, dọn đường cho Tổng tấn công cũng
viết: “Đáng lẽ sau đợt 1, nếu ta biết ngừng và chuyển hướng hoạt động chiến đấu
để chống địch bình định thì mới đúng” (103 – trang 54)
Sau này trong nghiên cứu của
mình, Hồ Khang cho rằng các hoạt động tiến công liên tục sau Mậu Thân là sự hy
sinh cần thiết, là hành động “dân tới để khẳng định tư thế đàm phán, buộc Mỹ
phải đàm phán theo yêu câu của chúng ta.” Thực tế, không phải các hy sinh to
lớn trong các giai đoạn tiến công tiếp theo trong năm 1968 đã buộc Mỹ nhân
nhượng về điều kiện đàm phán (bỏ qua sự phản ứng của chính quyền Sài Gòn, đơn
phương công nhận chấm dứt ném bom chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không
đòi miền Bắc ngừng chi viện cho miền Nam, công nhận Mặt trận dân tộc giải
phóng).
Phía Mỹ lùi bước không phải vì
sợ tinh thần hy sinh, sợ ý chí quyết tâm của Việt Nam mà lùi bước vì thiệt hại
thực sự to lớn của quân đội Mỹ, vì sự phản đối quyết liệt của nhân dân Mỹ. Nếu
Việt Nam chấp nhận đàm phán từ trước thì có thể dùng tiềm lực to lớn đã bị phí
phạm trong Tổng tiến công để tiến hành các hoạt động chiến đấu khác hiệu quả
hơn thì vẫn đạt mục tiêu này với thiệt hại ít hơn nhiều.
Bài học năm 1968 còn sờ sờ,
nhưng đến năm 1972 mọi chuyện lại lặp lại. Trần Quỳnh kể: thị xã Quảng Trị giải
phóng, địch ở Huế rối loạn. “Lê Duẩn, vẫn mơ tưởng với chủ thuyết thiết tha của
mình: chiến tranh ở Miền Nam là một cuộc chiến tranh cách mạng, kết hợp tấn
công và nổi dậy, công kích và khởi nghĩa, cho rằng tình hình ở Huế đúng là một
loại hình thức nổi dậy, khởi nghĩa… Lê Duẩn cho rằng có thể giải phóng được
Huế, bằng cách đưa bộ binh vào nhanh, với lực lượng không lớn, đánh thốc vào
Huế, không cần xe tăng và pháo lớn (104).”
Nhưng nhiều cán bộ lãnh đạo
quân sự đã không chịu thực hiện mệnh lệnh của Lê Duẩn để bộ binh đơn độc tấn
công vào Huế mà không có pháo binh và xe tăng yểm trợ. Hai hướng chỉ huy tấn
công dùng dằng nên về sau bộ đội phải quay về cố thủ thành cổ Quảng Trị. Chốt
quân cố định, phơi lưng cho bom pháo với sức công phá tương đương 7 quả bom nguyên
tử, dồn vào một địa bàn nhỏ có hơn 3 km2, bộ đội hy sinh quá nhiều,
phải bỏ thị xã Quảng Trị sang cố thủ bên kia bờ Thạch Hãn.
Hai tướng Song Hào, Lê Quang
Đạo phê phán Lê Duẩn ra lệnh kéo quân ra đánh Huế cho nên để mất Quảng Trị, hy
sinh xương máu binh sỹ. Lê Duẩn trả lời: nếu biết cách đánh và lấy được Huế thì
chẳng những giữ được Quảng Trị mà chiến thắng ở mặt trận Quân khu Trị Thiên và
Quân khu 5 biết đâu sẽ còn tiến xa hơn về Đà Nẵng. Hai bên cãi qua lại. Lê Duẩn
bảo: “tương lai của cuộc chiến tranh sẽ trả lời ai đúng ai sai” (105).
Sau này, khi tấn công năm 1975,
theo kế hoạch, sau khi đánh xong Buôn Mê Thuột sẽ tấn công vào Sài Gòn còn
thành phố Đà Nẵng sẽ để lại giải quyết sau, nhưng khi thấy quân địch ở Đà Nẵng
rối loạn, Võ Chí Công đã huy động ngay lực lượng bộ đội quân khu 5 tiến thẳng
vào giải phóng Đà Nẵng trước khi quân chủ lực miền Bắc tiến vào. Lê Duẩn cả
mừng nói: “Cuộc tranh cãi về Huế và Quảng Trị với Song Hào, Lê Quang Đạo v.v…
đã được thực tiễn chiến tranh giải quyết. Lê Duẩn hết lời ca ngợi Năm Công và
Chu Huy Mân, những người chỉ huy tài ba xuất sắc, xứng đáng là những người ở
trong cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước” (106). Nhưng thực sự cuộc tiến
công của lực lượng vũ trang liên khu 5 vẫn là một cuộc tấn công thuần túy quân sự
do bộ binh hợp đồng với xe tăng, pháo lớn. Thực tiễn đã chứng tỏ giấc mơ của Lê
Duẩn “khởi nghĩa nhân dân kết hợp tấn công quân sự” dù rất đẹp vẫn là duy ý
trí.
Những hy sinh to lớn của Tổng
tấn công Mậu Thân và trận đánh ở thành cổ Quảng Trị còn được giải thích bằng
lập luận ngụy biện là phải đánh thật mạnh để tạo thế trên bàn đàm phán, rằng
“vừa đánh vừa đàm” là bài bản của Việt Nam. Khi Kitxhinhgiơ hỏi về những hy
sinh vô lý này, Lê Đức Thọ trả lời: “Đó là vấn đề chính trị, đánh để dành thế
mạnh về chính trị trong đàm phán, chứ còn đứng về quân sự thì không ai vì một
mảnh đất nhỏ đổ nát mà đánh đến như thế (107 – trang 67-68). Nếu thực sự có
kiểu chính trị như vậy thì đó là chính trị của Lê Đức Thọ, chính trị dựa trên
hy sinh xương máu của đồng đội.”
Thứ nhất, trong lịch sử Việt
Nam các triều đại phong kiến thường cố gắng dùng các biện pháp ngoại giao mềm
mỏng nhất đối với nước lớn để tránh binh đao cho dân tộc. Từ gả con cái, cử
người đi xử cho đến xưng nhận chư hầu, cống nạp lễ vật… Thứ hai, khi đã buộc
phải chiến đấu, thì ngay sau những chiến thắng lẫy lừng thường bắt đầu hòa nghị
và đàm phán gắn với hòa giải khi chiến trường đã ngưng tiếng súng.
Kháng chiến chống quân Nguyên,
sau ba lần đánh tan quân địch với chiến thắng Bạch Đằng tháng 4 năm 1288, vua
Nhân Tông cử sứ thần sang xin vua Nguyên thông hòa và cho tiếp tục cống nạp như
xưa (108). Kháng chiến chống quân Minh, ngày 16 tháng 12 năm 1427, sau khi đánh
thắng hai đạo viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạch, Lê Lợi đã tổ chức “hội thề
Đông Quan” giảng hòa với Vương Thông. Kháng chiến chống quân Thanh, tháng 1 năm
1789, Quang Trung sau khi giải phóng Thăng Long, đánh tan quân giặc đã viết thư
gửi vua Mãn Thanh xin tạ tội và xin giảng hòa (109). Hội nghị Giơnevơ cũng diễn
ra ngay khi chiến trường Điện Biên Phủ vừa dành thắng lợi.
Các trường hợp Việt Nam buộc
phải vừa đánh, vừa đàm chỉ là giải pháp bất đắc dĩ khi lực lượng còn yếu, cần
kéo dài thời gian để chuẩn bị chiến đấu. Cuộc đàm phán trong quá trình kháng cự
bất lực của Triều đình nhà Nguyễn với thực dân Pháp đã đem lại các Hòa ước Nhâm
Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Quí Mùi (1883) và Giáp Thân (1884) lần lượt lùi
bước, mất đất, mất nước nhục nhã. Trong khi Nam Bộ đang chiến đấu chống xâm
lược, những cố gắng của Hiệp định Sơ bộ do Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh ký với
Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946 cũng lập tức mất tác dụng sau 3 tháng. Sau Hội
nghị Đà Lạt và cuộc đàm phán không có kết quả ở Phôngtenơblô, Tạm ước do Hồ Chí
Minh ký với Pháp tại Pari ngày 14 tháng 9 năm 1946 chỉ giúp tranh thủ thêm thời
gian 3 tháng.
Đây là những cố gắng cần thiết
vì hòa bình nhưng là những nỗ lực trên thế yếu trước một cuộc chiến tranh không
tránh khỏi. Nếu lùi bước mà có hòa bình, Lê Nin đã chấp nhận với Hòa ước Bret
Litốp kí với Đức, Hồ Chí Minh đã chấp nhận với Hiệp định Sơ bộ. Phải khẳng định
rằng: lựa chọn chiến tranh khi còn có cơ hội hòa bình và “vừa đánh vừa đàm”
không bao giờ là truyền thống và cũng không phải là bài học để kết thúc chiến
tranh trong lịch sử dân tộc Việt Nam !
Quả thật, “vừa đánh vừa đàm”
sau sự kiện Mậu Thân là một chủ trương không được chuẩn bị kỹ càng, thiếu căn
cứ khoa học. Quá trình đàm phán gần 5 năm tại Hội nghị Pari với 149 phiên chính
thức, trong khi chiến tranh tiếp tục kéo dài ác liệt, chỉ là sự thỏa hiệp không
tính trước của Lê Duẩn trong hoàn cảnh kẹt giữa hai quan điểm giáo điều và xét
lại sau Tổng tấn công thất bại. Trong hoàn cảnh bị động ấy, các đợt “gây sức ép
trên chiến trường” như các đợt tấn công tuyệt vọng sau Tết Mậu Thân hay cuộc
chiến đẫm máu ở thành cổ Quảng Trị năm 1972 phải được đau đớn thừa nhận là vô
ích và vô nhân đạo.
Nhóm giáo điều hơn, thân Trung
Quốc cho rằng phải đánh đến thắng lợi lớn hơn rồi mới đàm phán. Hoàng Văn Hoan
viết: “Việc Lê Duẩn hấp tấp thoả thuận đưa một bộ máy lớn đến Pa-ri hội đàm với
Mỹ như thế, là một việc tính toán sai lầm và nôn nóng không cần thiết. Nếu để
sức người sức của phải tiêu hao ở Pa-ri trong gần năm năm tăng cường cho cuộc
chiến đấu ở miền Nam và chống bắn phá ở miền Bắc, thì cuối cùng Mỹ vẫn phải hội
đàm, phải chịu ký kết “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam” bằng cách Mỹ phải rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam. Đồng thời cuộc hội
đàm có thể rút ngắn, thí dụ như cuộc hội đàm Giơ-ne-vơ năm 1954, chỉ độ hai
tháng là kết thúc (110).”
Ngược lại, mong muốn của nhóm
xét thân Liên Xô lại là hai bên cùng ngừng chiến sự, ít nhất là trên lãnh thổ
miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán thay vì tổ chức cuộc Tổng tấn công. Trong hoàn
cảnh hai bên còn tương đương thế lực, đàm phán như vậy có nghĩa là quay trở lại
thực trạng trước năm 1964, chấp nhận rằng sự kiện Vịnh Bắc Bộ xảy ra là sai lầm
cho cả hai phía. Thực ra, có lẽ những người xét lại đã ủng hộ một cuộc đàm phán
sớm hơn nữa, ít nhất là vào quãng 1963 giữa các bên Việt Nam với nhau, trước
khi Mỹ có cơ hội mở rộng từ cuộc “chiến tranh đặc biệt(g) sang thành
cuộc “chiến tranh cục bộ(h)”. Trong trường hợp này, đất nước có thể
tiếp tục chia cắt thành hai miền có chế độ kinh tế, chính trị khác nhau để tiến
đến hòa bình thống nhất như Hiệp định Giơnever qui định.
Một câu hỏi được đặt ra là
chiến dịch này đã được chuẩn bị từ lâu hay tiến hành một cách vội vã? Mới nhìn
các bằng chứng thì thấy việc thay đổi định hướng chiến tranh, cụ thể là hình
thành kế hoạch tiến hành cuộc tổng tấn công và nổi dậy có vẻ diễn ra rất gấp
gáp, chiến dịch tối quan trọng và rất phức tạp được chuẩn bị vội vã và không
chu đáo. Tướng Trần Văn Trà đã phê phán lãnh đạo miền Bắc đã không dành đủ thời
gian cho lực lượng kháng chiến miền Nam chuẩn bị cho cuộc tống tấn công và nổi
dậy (111). Xem lại diễn biến cuộc tấn công đều có thể thấy những sai sót khó
tin trong công tác hậu cần và phối hợp tác chiến. Ở nhiều nơi, các cánh quân bị
lạc đường, tấn công bằng vũ khí nhẹ không đủ sức mở cửa các mục tiêu chính(i),
công tác tiếp tế đạn dược, cứu thương rất sơ sài, không có lực lượng thu giữ tù
binh, nhiều nơi lực lượng tấn công chỉ là một nhóm biệt động, không có quân
tiếp viện, không có đường rút lui,… Những mục tiêu tối quan trọng như sứ quán
Mỹ chỉ được giao nhiệm vụ vào giờ chót (ngày 25 tháng 1 năm 1968), khiến cho
biệt động Sài Gòn phải tìm cách gom nhặt thành lập gấp đội tác chiến 17 người.
Không thể có đủ thời gian để chuẩn bị, tập dượt (112 – trang 117).
Thật khó mà tin được là chỉ vài
tháng trước ngày nổ súng vào các vị trí được phòng thủ nghiêm ngặt như dinh
Tổng Thống, Bộ Tổng Tham Mưu, người ta lại điều Phạm Xuân Ẩn, nhà tình báo
chiến lược quan trọng nhất mạo hiểm lái ô tô, lái xuồng máy trực tiếp chở Đại
tá Nguyễn Văn Tào (Tư Cang) – cụm trưởng tình báo chiến lược đi thị sát trực
tiếp các mục tiêu (113). Một hành động mà chính Phạm Xuân Ẩn cũng nhận xét là:
“khá nguy hiểm ở mức không mấy cần thiết”. (*)
(Tạm ngừng trích đăng)
—–
g Quân đội Việt Nam Cộng hoà + cố vấn Mỹ + Vũ khí
Mỹ + Viện trợ kinh tế Mỹ
h Lực lượng cơ động quân đội Mỹ “tìm diệt” chủ lực
địch, quân Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng “bình định” lãnh thổ
i Đến thuốc nổ cũng không đủ phá cửa sắt của các
mục tiêu chính như Sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập,
—–
CHÚ THÍCH:
79. Ilya V. Gaiduk Liên bang Xô
Viết và chiến tranh Việt Nam.
80. Bài nói của đồng chí Lê
Duẩn bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ 12 của
Trung ương. Phấn khởi tiến lên, đem toàn lực của nhân dân hai miền đánh thắng
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 24. NXB Chính trị quốc
gia. 2003.
81. Bài nói của đồng chí Lê
Duẩn bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ 12 của
Trung ương. Phấn khởi tiến lên, đem toàn lực của nhân dân hai miền đánh thắng
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 24. NXB Chính trị quốc
gia. 2003.
82. Sự thật về quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc trong 30 năm qua. Sách Trắng của Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Nhà xuất bản Sự Thật. 1979.
83. Trong 77 Conversation,
137-138.
84. “Meeting between Zhou Enlai
and Phạm Văn Đồng (April 13-19, 1968, Beijing) in 77 Conversation, 123-129; and
“Meeting between Zhou Enlai and Phạm Hùng” (June 29, 1968, Beijing) in 77
Conversation 137-138. “Meeting between Chen Yi and Lê Đức Thọ” (October 17,
1968, Beijing) in 77 Conversations 139-140.
85. Sophie Quinn Judge. The
Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair,
1967-1968. Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh
hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ
chống Đảng 1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt
đăng trên talawas.
86. Ilya V. Gaiduk Liên bang Xô
Viết và chiến tranh Việt Nam.
87. Ilya V. Gaiduk Liên bang Xô
Viết và chiến tranh Việt Nam.
88. Nguyễn Khắc Huỳnh. Quan hệ
Mỹ – Xô Trung và đường lối độc lập, tự chủ của Việt Nam trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
89. D. Gareth Porter and Len E.
Ackland, “Vietnam: The Bloodbath Argument”, the Christian Century, Nov 5, 1969.
1414-1417.
90. Nguyễn Minh Cần. Vài mẩu
chuyện về cuộc đời Hồ Chí Minh. Ngày 10 Tháng Ba 1997.
91. Liên Hằng T. Nguyễn. The
war politburo: North Vietnam’s Diplomatic and Political Roard to the Tết
Offensive.
92. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
93. Hoàng Văn Thái. Mấy vấn đề
về tổng kết chiến tranh và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Hà Nội năm 1987.
94. Biên niên sự kiện lịch sử
lực lượng an ninh nhân dân 1954-1975. NXB Công an Nhân dân. Hà Nội. 1997.
95. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
96. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
97. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
98. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa
công bố.
99. Bài nói chuyện của đồng chí
Lê Duẩn tại hội nghị TW lần thứ 14 Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn
tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2003, Tập 29.
100. Miền Đông Nam Bộ kháng
chiến (1945-1975), NXB Quân Đội Nhân dân. Hà Nội Tập 2 trang 339-340.
101. Nghị quyết của Hội nghị
lần thứ 14 của Trung ương Đảng tháng 1 năm 1968. Anh dũng tiến lên, thực hiện
Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước. Văn kiện Đảng Toàn tập. Tập 29. NXB Chính trị quốc gia.
2003.
102. Trần Bạch Đằng Mậu Thân –
Cuộc tổng diễn tập chiến lược. Tạp chí Lịch sử quân sự số 2, 1988.
103. (Số 238 trong sách không
có)
104. Hồi ký Trần Quỳnh: Những
Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
105. Hồi ký Trần Quỳnh: Những
Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
106. Hồi ký Trần Quỳnh: Những
Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
107. Lê Đức Thọ. Một số vấn đề
về tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân đội. NXB Sự Thật Hà Nội 1989.
108. Trần Trọng Kim. Việt Nam
Sử lược 1920. Vua Quang Trung đại phá quân thanh.
109. Trần Trọng Kim. Việt Nam
Sử lược 1920. Vua Quang Trung đại phá quân thanh.
110. Hoàng Văn Hoan. Giọt nước
trong đại dương: hồi kí cách mạng của Hoàng Văn Hoan. Nhà xuất bản Ngoại văn
Bắc Kinh, 1988, trang 420.
111. Trần Văn Trà. Tết: tổng
tấn công và nổi dậy đồng loạt. Vietnam war. Vietnamese and American
perspective.
112. Hồ Khang. Tết Mậu Thân
1968 bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc
gia 2008.
113. Việt Báo 2/10/2006. Phạm
Xuân Ẩn và những huyền thoại để lại.
—-
* Xem: Chuyện
Mậu Thân 68′ và cung đình cộng sản VN (1); – Chuyện
Mậu Thân 68′ và cung đình cộng sản VN (2); – Chuyện
Mậu Thân 68′ và cung đình cộng sản VN (3).
------------------------------------
CHUYỆN 'MẬU THÂN 68' & CUNG ĐÌNH CỘNG SẢN VIỆT NAM
No comments:
Post a Comment