Posted by chepsuviet
on 07/02/2014
Lời buộc tội chính thức cho “vụ
án xét lại-chống Đảng” được đưa ra 4 năm sau đó, tại Hội nghị 20 Ban chấp hành
Trung ương Đảng tháng 1 năm 1972, Lê Đức Thọ tuyên bố đã có âm mưu lật đổ sự
lãnh đạo của Đảng. Trong âm mưu đó, Đại sứ Liên Xô, Ilia Shecherbakov và Bí thư
thứ hai, Rashid Khamidulin có liên hệ với những người lập mưu. Với lý do “do
tình hình quốc tế và tình hình cách mạng trong nước lúc đó, Bộ Chính trị quyết
định không đưa ra truy tố trước pháp luật, mà chỉ quyết định thi hành kỷ luật
48 đảng viên, trong đó khai trừ 25, lưu đảng 14, cảnh cáo 7, khiển trách 2″
(45 – trang 268-269). Những người này không bao giờ được xét xử và đã phải chịu
nhiều hình thức tù đày, hành hạ không phải kỷ luật của đảng.
Sophie Quinn Judge viết: “Một
trong những lời buộc tội chính đối với “nhóm chống Đảng” là họ đã chống lại
Nghị quyết 9 của ủy ban Trung ương, được thông qua năm 1963. Họ cũng bị kết tội
là chống lại chính sách đấu tranh vũ trang chống Mỹ để giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. [46] Cuối cùng, họ bị buộc tội là tuồn tài liệu mật cho
một nước khác. Như chúng ta đã biết, những lời buộc tội này không được chính
thức hoá cho đến 1972, khi uỷ ban hoàn thành cuộc điều ưa (47).” Oberdorfer(e)
cho rằng những người bị bắt trong vụ án chống Đảng là những đảng viên chống
việc chủ trương leo thang chiến tranh và tổ chức cuộc Tổng tấn công Tết để dập
tắt mọi ý kiến bất đồng trong nội bộ (48).
Thực sự, chiến dịch thanh trừng
nhóm “xét lại chống Đảng” năm 1977 là bước xử lý cuối cùng của những người giáo
điều đối với những người xét lại, tiếp theo các đợt cải cách ruộng đất, chỉnh
đốn tổ chức, nhằm loại bỏ những người cộng sản, những người lãnh đạo muốn phát
huy đoàn kết mọi tầng lớp xã hội trong mặt trận chung dưới ngọn cờ dân tộc. Đây
là chiến dịch dựa trên tinh thần của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc lúc đó đang
chỉ huy lực lượng giáo điều tiến hành “tạo phản” (lật đổ chính quyền) cũng với
mục đích như trên.
Trong cuộc thảo luận giữa Chu
Ân Lai, Trần Nghị, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Bắc Kinh ngày 12 tháng 4
năm 1967, Chu Ân Lai thông báo tình hình cách mạng Văn Hóa ở Trung Quốc: “Từ
đầu năm nay, mục tiêu của cuộc đấu tranh là cướp chính quyền, bằng cách kết hợp
các lực lượng nhân dân cách mạng, cán bộ cách mạng, và đại diện các lực lượng
vũ trang. Họ tố cáo bất kỳ mối quan hệ nào với các nhà lãnh đạo tư bản chủ
nghĩa, thành lập các ủy ban cách mạng, các chính phủ lâm thời, trong các văn
phòng chính phủ và các nhà máy (49).”
Chu Ân Lai cũng không dấu diếm ý định lan truyền tư tưởng lật đổ này cho Việt
Nam để giới thiệu về hệ thống “sở hữu công cộng”, các ông dựa vào ai? Dựa vào
kinh nghiệm 17 năm sau giải phóng, đồng chí Mao Trạch Đông cho rằng, sau khi cướp
chính quyền, giai cấp vô sản sẽ loại bỏ các “quyền sở hữu tư nhân” của giai cấp
tư sản. Nhưng quá trình này sẽ bị bỏ dở nửa chừng nếu dựa vào phương thức lãnh
đạo “từ trên xuống”. Chu thẳng thắn tuyên bố: “Cuộc Cách mạng Văn hoá của
chúng tôi là nhằm lật đổ một nhóm lãnh đạo trong Đảng muốn theo con đường tư
bản chủ nghĩa”, và giải thích. “Trong một bài phát biểu năm ngoái, đồng
chí Lâm Bưu đã nói: trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
tiêu diệt “tư hữu” của tư sản, và xây dựng “công hữu” của vô sản”. Hơn nữa,
“như tôi đã nói với các đồng chí, trong xã hội của chúng tôi, “tư hữu” vẫn
còn tồn tại… Và vẫn còn đó sở hữu tư nhân, đất tư, thị trường tự do, kinh doanh
tự do. Cho nên, chủ nghĩa tư bản có thể tái diễn bất kì lúc nào… Tất cả các yếu
tố vừa nói đó là mảnh đất màu mỡ cho sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản và sự
xuất hiện của chủ nghĩa xét lại” (50).
Ngoài vấn đề đấu tranh ý thức
hệ, trong vụ án xét lại – chống Đảng dường như còn có yếu
tố cá nhân khác. Có nhiều người bị liên lụy đến vụ án ở mức độ khác nhau nhưng
nhiều cán bộ lão thành và các nhà nghiên cứu lịch sử nhận xét rằng hầu hết
những người đã từng bị Pháp bắt giam tại nhà tù Sơn La, trong vụ này đều bị bắt
và hành hạ quyết liệt. Vũ Thư Hiên giải thích rằng Lê Đức Thọ muốn loại trừ
những chiến sĩ là đồng chí từng ngồi tù với ông ta ở Sơn La, những người biết
chuyện ông được chúa ngục người Pháp biệt đãi cho làm hầu cận (51 – trang 176).
Thực tế là hai người bạn tù rất gắn bó và ủng hộ ông lúc đó, sau giai đoạn này
được đưa vào Bộ Chính trị và các vị trí quan trọng khác của Đảng là Nguyễn
Thanh Bình và Nguyễn Cơ Thạch. Mối quan hệ giữa việc hành xử đồng đội cũ
và quá khứ của Lê Đức Thọ trong nhà tù Sơn La là có thật.
Theo Liên Hằng Nguyễn, mỗi nhà lãnh đạo
chính trong Bộ Chính trị vào thời điểm đó, có ý định riêng của mình khi quyết
định tổ chức đàn áp. Lê Duẩn muốn khẳng định vai trò lãnh đạo trong Đảng và
dành tuyệt đối quyền chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam; Lê Đức Thọ
muốn thanh trừng mọi kẻ đối chọi trong nội bộ để đảm bảo xây dựng quyền lực
tương lai; Trường Chinh muốn củng cố và hình thành hệ tư tưởng chính thống lâu
dài trong Đảng, nhưng tất cả họ đều thống nhất tiến hành một chiến dịch đàn áp
triệt để các lực lượng đối lập trong Đảng để gạt bỏ những trở ngại trước khi
Tổng tiến công và giải quyết dứt điểm mối đe dọa tiềm tàng khi dành được thắng lợi tương
lai.
Về mặt thể hiện quan điểm,
tháng 5 năm 1967, Lê Duẩn trình bày trên tạp chí Học tập: “Nếu chúng
ta muốn giành thắng
lợi cho cuộc cách mạng vô sản, giai cấp công nhân ở mỗi nước phải nắm chắc và
giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc và dân chủ – chỉ bằng cách này chúng ta
mới đoàn kết được dân chúng trong tùng nước nơi cuộc đấu tranh đang bùng nổ”…
“Ngày nay, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư bản trên
toàn thế giới được tiến hành dưới khẩu hiệu “hoà
bình, độc lập, chủ nghĩa dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.” Như vậy,
trong khi thỏa hiệp với lực lượng của Lê Đức Thọ để gạt bỏ những người chống
đối, dành quyền
lực, có vẻ Lê Duẩn vẫn không chủ trương áp dụng khẩu hiệu đấu tranh giai cấp,
chống tập đoàn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng để tiến hành đảo
chính “tạo phản” như đang diễn ra ở Trung Quốc.
Chỉ mấy tháng sau bài viết của
Lê Duẩn, trên cùng tạp chí Học Tập(f), nhân kỷ niệm 150 năm ngày
sinh Các Mác tháng 9 năm 1968, Trường Chinh đã thể hiện tư tưởng quyết liệt hơn
về đấu tranh giai cấp trong mặt trận thống nhất, khẳng định “Đảng phải tiếp
tục nắm “quyền kiểm soát không tranh cãi đối với mặt trận thống nhất trong mọi
giai đoạn của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và không vì bất kỳ lí do gì mà để
nó rơi vào tay của “giai cấp tư sản” – Đảng phải luôn luôn bảo toàn bản sắc độc
lập của mình trong mặt trận; mục đích duy nhất của cương lĩnh tối thiểu (độc
lập và cải cách xã hội) của mặt trận là để thúc đẩy việc hiện thực hoá cương
lĩnh tối đa của Đảng (xây dựng một nhà nước cộng sản). Đảng “phải tuyệt đối
không cho phép tư sản dân tộc lãnh đạo mặt trận dân tộc thống nhất” ” (52).
Ông khẳng định lại những quan
điểm giáo điều tả khuynh về áp dụng chuyên chính vô sản để chống lại những đòi
hỏi về dân chủ và cả về dân tộc: “Về chuyên chính, rõ ràng là chuyên chính
của đại đa số nhân dân lao động sẽ được hiện thực hoá, và ngược với những thế
lực phản cách mạng và bọn bóc lột, những kẻ là thiểu số và không chịu tự cải
tạo… dưới chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, những kẻ thù của nhân dân và của chủ
nghĩa xã hội sẽ không được phép hưởng các quyền dân chủ. Nhà nước chuyên chính
vô sản kiên quyết ngăn chặn việc sử dụng các khẩu hiệu dân chủ hoá chế độ để
làm suy yếu hay xoá bỏ chuyên chính vô sản, coi nhẹ hay phủ nhận quyền lãnh đạo
cách mạng của giai cấp công nhân và của Đảng Cộng sản, hay từng bước thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình” và đẩy đất nước tiến dần đến hệ thống tự do tư sản
và cuối cùng trở lại chủ nghĩa tư bản. Cùng lúc đó, việc đấu tranh chống mọi
biểu hiện của tư sản dân tộc, kẻ thù của tinh thần quốc tế vô sản, cái cô lập
và đẩy đất nước vào vòng tay của chủ nghĩa tư bản thế giới là rất cấp bách”
(53).
Đồng điệu với Trường Chinh,
trên tạp chí Xây dựng Đảng số 1 năm 1968, Lê Đức Thọ viết: “cuộc đấu tranh
chống Mỹ cứu nước và cuộc đấu tranh giữa hai con đường phải kết hợp chặt chẽ
với nhau và thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp để xác lập phương hướng
chính trị của giai cấp công nhân.
Khắc phục mọi biểu hiện không
vô sản trên các lĩnh vực đó. Không có cuộc đấu tranh đó thì không thể nào phân
rõ được đúng sai, và giành thắng lợi chính trị cho đường lối của Đảng, của giai
cấp”.
Đặc biệt, ông khẳng định tính
giai cấp trong công tác cán bộ như những gì Lê Văn Lương đã tuyên bố trong vụ
Chỉnh đốn tổ chức trước đây: “Đảng cũng đã vạch ra đường lối giai cấp trong
công tác cán bộ. Tức là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ công nhân và
những người trí thức cách mạng. Trong trí thức, chúng ta chú ý những người trí
thức lớp dưới, tức là những con em công nông tất cả những điều đó là sự thể
hiện tính chất giai cấp trong đường lối tổ chức của Đảng. Có như vậy mới bảo
đảm được sự vững vàng về chính trị và tư tưởng.”
Lê Đức Thọ trắng trợn phê phán
lại việc sửa sai cải cách ruộng đất: “Trong sửa sai cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức, chúng ta lại phạm hữu khuynh, khôi phục lại cho cả những
người bị xử trí đúng. Tình hình đó làm cho ở trong Đảng có một số thành phần
không trong sạch. Cho đến nay vẫn còn tồn tại những hậu quả đó” (54). Quả
thật Lê Đức Thọ đã rất tự tin về thắng lợi trong cuộc tranh giành quyền lực sắp tới nên dám
công khai lật lại việc thanh lọc Đảng còn làm dở dang trong chỉnh đốn tổ chức.
Thực chất không khác gì kêu gọi tiến hành cuộc cách mạng Văn Hóa đang diễn ra ở
Trung Quốc.
Liên kết với nhóm giáo điều cực
tả để chống những người xét lại, Lê Duẩn đã “dấy âm binh lên và không kiềm
chế nổi”. Không còn đối trọng, lực lượng thân Trung Quốc thả sức hoành hành đến
mức gây nguy hại cho bản thân Lê Duẩn. Trần Quỳnh kể: “Lúc bấy giờ đối với Liên
Xô tha hồ mà nói xấu, mà chửi rủa, không chỉ trong nội bộ mà cả ở chỗ công
khai. Còn nói động đến Trung Quốc là điều cấm kỵ. Ai nói mà lọt đến tai mấy ông
uỷ viên Bộ chính trị thì sẽ bị đặt “thành vấn đề” bị điều tra, “hỏi thăm sức
khỏe (…) Trong trào lưu thân Trung Quốc và bài Liên Xô, Lê Duẩn thấy
mình thuộc về phía thiểu số trong Bộ chính trị (…) Lê Duẩn thấy trào lưu thân
Trung Quốc trong Đảng là một mối nguy lớn.”
Lê Duẩn nói: “Sự chia rẽ và
chống đối giữa hai Đảng và hai nước đã gây cho ta lắm phiền toái rồi, sự không
nhất trí về lập trường trong Bộ chính trị lại làm cho hoàn cảnh của ta thêm
phức tạp.” Tuy đã gọi Tố Hữu và Trần Quang Huy đến phê bình nhưng ông vẫn
thấy bất lực và đành tự mình đi đến một số địa phương nói chuyện cho cán bộ cấp
tỉnh nghe (55).
Như vậy, tuy khác nhau về quan
điểm nhưng cùng liên kết trong chiến dịch lật đổ và thanh trừng, Trường Chinh,
Lê Đức Thọ phải thống nhất với quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công do Lê
Duẩn thiết kế, mặc dù chưa chắc thực sự đã ủng hộ triệt để. Trong cuộc họp Bộ
Chính trị tháng 10, Trường Chinh chủ trì đã kết luận: “ta tranh thủ giành
thắng lợi cao nhất, song cũng có thể đạt được mức độ thôi”.
Hai mươi năm sau, Lê Đức Thọ
đặt lại câu hỏi: “Ngày đó, nếu mục đích trong cuộc Tổng tiến công-Tổng khởi
nghĩa Tết Mậu Thân mà chúng ta đã đề ra chỉ là đánh thất bại nặng nhất là nhắm
vào những vị trí ở trung tâm đầu não địch để buộc chúng ngồi vào bàn đàm phán
thì ta có cần mở cuộc Tổng tiến công-Tổng khởi nghĩa giành chính quyền như
chúng ta đã đề ra để đến nỗi bị tiêu hao quá nhiều lực lượng như thế không? Cái
giá ấy đắt quá!” (56 – trang 56).
Các đối tượng bị thanh trừng bị
giam tại Hỏa Lò Hà Nội để lấy khẩu cung, trong thời gian đó, Lê Đức Thọ kể rằng
ông ta và Trần Quốc Hoàn trực tiếp hỏi cung: “Trong những buổi chúng tôi gặp
họ suốt hai ba tiếng đồng hồ, trực tiếp hỏi những vấn đề mấu chốt nhất (…)
những bản cung, không bản nào là tôi không đọc. Tôi đã đọc rất nhiều. Chưa bao
giờ tôi đọc nhiều tài liệu như thế với vụ này. Đọc các bản khai cung của từng
anh trong vòng hai tháng, tôi lại tổng kết lại, nhận định xem anh này khai thực
chỗ nào. Đối chiếu kỹ lưỡng, đánh giá cho thật đúng (…) Vụ này là một vụ án
chính trị. Nên phải có lý lẽ rất dữ, phải đấu lý với số đối tượng bị bắt. Đấu
lý là một cuộc đấu tranh mệt óc lắm, chưa lúc nào phải động não nhiều như thế
này. Vì là vấn đề quan hệ nội bộ, không làm như thế này thì không ra vấn đề
“(57).
Qua bài nói chuyện của Lê Đức
Thọ với cán bộ cao cấp, trung cấp trên vào ngày 17 tháng 2 năm 1968, khi vụ án
đang trong thời kỳ sôi động, có thể thấy các biện pháp khai thác, đe dọa, mua
chuộc để có được các lời khai là rất quyết liệt, gây sức ép lên đối tượng bao
gồm cả sự đối xử, đàn áp đối với cả gia đình, bạn bè của họ. Và thái độ đối với
họ được Lê Đức Thọ thẳng thắn tuyên bố: “Bây giờ số này tất nhiên không phải
là đồng chí nữa rồi. Sau này nếu có người còn trở lại giúp ích gì được cho cách
mạng thì cũng còn phải lâu dài, thậm chí có anh hỏng luôn, không cải tạo được.
Nói như vậy để chúng ta thấy chúng ta có thể cải tạo được con người, nhưng việc
đó không phải đơn giản và không tùy thuộc ở ta, chúng ta cần nhận định cho rõ
vấn đề đó” (58). Tuyên bố như vậy, thực sự Thọ đã chủ trương hành hạ, loại
bỏ các đối tượng này triệt để.
Trong hoàn cảnh bị cách ly,
thật khó mà tìm hiểu thái độ của Hồ Chí Minh với nhóm lãnh đạo đang tiến hành
dành quyền lực. Trong những ngày căng thẳng sau hội nghị Bộ Chính trị, chiều 29
tháng 12 năm 1968, Hồ Chí Minh họp Hội đồng Chính phủ cuối năm. Ông nói: “Chúng
ta là những người tham gia cách mạng lâu, đã chống Pháp thắng lợi, cứ tưởng
chúng ta có kinh nghiệm rồi, nhưng bây giờ phải học tập chiến sỹ, học tập thanh
niên.. .Trong Chính phủ ta, tuy đã cố gắng, nhưng phải cố gắng nhiều hơn nữa,
phải luôn tự nhận xét mình về mọi hành động, về công tác cũng như về đạo đức
cách mạng, chú ý tự phê bình và phê bình hơn nữa, có như vậy mới theo kịp quần
chúng, theo kịp chiến sỹ.” Trong chỉ thị của ông cho chiến trường miền Nam
đang bước vào trận chiến đấu quyết định được viết trong mấy ngày này, câu cuối
cùng là “cán bộ phải thật gương mẫu.” (59) Bằng cách đề cao vai trò quần
chúng, có lẽ ông muốn gián tiếp nhắc nhở các cán bộ lãnh đạo đang hành xử ngạo
mạn, chủ quan trong các quyết định sống còn của đất nước. Trong thời gian làm
việc 8 ngày ở Việt Nam với 3 cuộc họp Bộ Chính trị về những vấn đề căng thẳng
của cuộc tổng tấn công, không cho phép Hồ chí Minh nắm lại, chứ đừng nói đến
việc can thiệp vào các cuộc thanh trừng nội bộ đang diễn ra. Mặc dù vậy rõ ràng
ông lo lắng đến số phận các đồng chí của mình. Trước hết là cho Võ Nguyên Giáp
đang vắng mặt. Trong tình hình biến động đang diễn ra, Hồ Chí Minh lo lắng cho
Võ Nguyên Giáp hoàn toàn có lý. Nguyễn Chí Thanh đã chết bất ngờ ngay buổi tối
sau cuộc họp cuối cùng buổi chiều với Hồ Chí Minh, chỉ 2 tháng trước khi Chủ
tịch phải sang Trung Quốc “dưỡng bệnh.” Nỗi đau đớn này chưa nguôi, trong mấy
ngày được về nước ngắn ngủi Hồ Chí Minh thu xếp để ăn cơm với vợ con Nguyễn Chí
Thanh (60) (61). Sau này, năm 1986, Đại tướng Hoàng Văn Thái cũng chết đột ngột
trước ngày được đề bạt lên chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng, ngay sau cuộc gặp Lê
Đức Thọ.
Sáng chủ nhật 31 tháng 12 năm
1967, Hồ Chí Minh ghi âm lời chúc Tết đồng bào cả nước (sẽ phát trên đài phát
thanh đêm giao thừa làm hiệu lệnh tấn công) tại Phủ Chủ tịch. Chiều ngày hôm
sau, sau khi họp lần cuối với Bộ Chính trị, bốn giờ chiều, ông lên máy bay trở
lại Bắc Kinh “tiếp tục đi nghỉ” “theo quyết định của Bộ Chính tri và Hội đồng
bác sĩ”(62), giữa lúc nội bộ và cục diện chiến tranh đang diễn ra những thay
đổi mang tính quyết định. Rõ ràng đây là biện pháp cách ly bắt buộc ông khỏi vị
trí chỉ huy cao nhất. Tháng 1 năm 1968, đến sát ngày mở màn cuộc Tấn công, Hội
nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới được triệu tập để thông qua
quyết định thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Cuộc họp vô cùng quan
trọng bàn việc giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mà
lại vắng mặt nhiều nhân vật hàng đầu như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Lê Duẩn
mở đầu hội nghị bằng thông báo không bình thường: “Trước hết, tôi xin báo
cáo với các đồng chí lần này Hội nghị Trung ương chúng ta họp có một số đồng
chí Trung ương bị ốm không đến được. Có một số đồng chí bận việc không đến
được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng
chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ, đồng chí Dũng sẽ đến báo cáo” (63). Tuy
nhiên, Hội nghị này không có mục đích thảo luận, mọi việc đã được quyết định,
nghị quyết chỉ còn là thủ tục hình thức cho quyết định Tổng tấn công.
Một trong những căn cứ quan
trọng được Lê Duẩn viện dẫn để thuyết phục Hội nghị Trung ương 14 về khả năng
thắng lợi là câu chuyện lực lượng cách mạng nổi dậy và chiếm giữ Đà Nẵng trong
70 ngày đêm mùa hè năm 1966. Lê Duẩn nói: “Trước kia phong trào bật khởi; do
mấy lần thất bại, phong trào đã chuyển hóa thành dưới quyền lãnh đạo của ta. Vụ
vừa rồi, mấy vạn thợ, quần chúng công nhân đấu tranh, giai đoạn này do ta lãnh
đạo. Và như vậy quần chúng đã khởi nghĩa, đã dùng bạo lực, quần chúng đã chín
muồi, muốn nắm chính quyền. Hàng triệu người ra đường phố, quần chúng đó xưa
nay chỉ chờ sức mạnh quân sự của ta. Hiện nay ở đô thị, đã có từng chòm, phường
ta làm chủ. Hầu hết đô thị đều sôi nổi, coi như bây giờ không còn con đường nào
khác, phải đánh đổ Mỹ; chỉ có khởi nghĩa, cứu nước, cứu mình, không còn con
đường nào khác “(64). Nhưng thực tế của sự kiện Đà Nẵng khác xa với kịch
bản của một cuộc khởi nghĩa:
Tháng 3 năm 1966, Chính quyền
Sài Gòn cách chức Tư lệnh vùng I của Nguyễn Chánh Thi. Người của tướng Thi tại
sở tuyên úy phật giáo, Quân đoàn 1 và Quốc Dân Đảng tổ chức mít tinh chống lại
và nêu khẩu hiệu ly khai chế độ tham nhũng của Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao
Kỳ. Tổ chức Đảng ở Đà Nẵng nhân cơ hội đưa người vào ủy ban lãnh đạo phật giáo,
thành lập “Hội đồng Nhân dân tranh thủ cách mạng”, kêu gọi nhân dân xuống đường
đấu tranh. Ngày 19/3 “ủy ban nhân dân tranh thủ vùng I” đổi tên thành “Lực
lượng nhân dân tranh thủ cách mạng” với sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ Đảng
của Thành ủy Đà Nẵng.
Lực lượng này chiếm đài phát
thanh, đảm bảo an ninh trong thành phố, tổ chức các phong trào của các tầng lớp
quần chúng như học sinh, thợ máy, tiểu thương,…tiến hành tổng đình công, bãi
khóa, bãi thị. Khi chính quyền Sài Gòn đưa quân đến đàn áp, nhân dân được vũ
trang và thành lập ban chỉ đạo tác chiến của quân địa phương ly khai cùng tổ
chức chiến đấu chống quân đội Trung ương của địch. Chiến sự diễn ra từ giữa đến
cuối tháng 5 năm 1966 thì cuộc nổi dậy bị dập tắt (65).
Cuộc nổi dậy ở thành phố Đà
Nẵng là một trường hợp đặc biệt do lãnh đạo Đảng bộ địa phương nhanh nhạy nắm
bắt cơ hội mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, tiến hành sử dụng lực lượng tôn
giáo và làm công tác binh vận, huy động nhân dân tham gia nổi dậy làm chủ địa
phương. Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc nổi dậy có kết hợp với hoạt động
tấn công quân sự của lực lượng vũ trang cách mạng. Các cuộc chiến đấu chủ yếu
do chính quân Việt Nam cộng hòa ly khai tiến hành.
Khẩu hiệu đấu tranh nhắm vào
chống lại chính quyền Thiệu Kỳ tham nhũng, tranh thủ trung lập lực lượng Mỹ,
hạn chế họ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Cuộc nổi dậy không nhằm
mục đích đánh đuổi quân đội Mỹ, lật đổ chính quyền miền Nam và thành lập chính
quyền cách mạng. Vì vậy, dù có chiến đấu bảo vệ địa bàn nhưng trong khuôn khổ
“hợp pháp hóa”, không nhằm tiêu diệt sinh lực địch, không đối đầu với quân đội
Mỹ. Tuy thế, cuộc nổi dậy cũng chỉ diễn ra trong 76 ngày đêm.
Tại Hội nghị Trung ương 14, Lê
Duẩn đưa ra nhận định chủ quan rằng khả năng lực lượng cách mạng giữ vững Đà
Nẵng trong 70 ngày đêm trong cuộc nổi dậy mùa hè năm 1966 đã chứng minh các
thành phố trung tâm đã chín muồi cho các cuộc nổi dậy (66) (67). Từ đó, Hội
nghị nhận định “điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế
chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn.”
Trung ương Đảng hạ quyết tâm
“chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ
mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”. Thật ra, các
chủ trương này đã được nhóm lãnh đạo giáo điều đứng đầu là Lê Duẩn quyết định
từ nửa năm trước nhưng chỉ đến khi gạt bỏ mọi bộ phận trong nội bộ có khả năng
ngăn cản mới đưa ra thông qua chính thức để tránh sự chống đối như đã từng xảy
ra với Nghị quyết 9 năm 1963. Chính vì thế các ý kiến chủ quan duy ý chí đã
không bị phản biện.
Mục tiêu chiến lược của tổng
công kích, tổng khởi nghĩa rất tham vọng là nhằm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt
đại bộ phận quân nguỵ, đánh đổ nguỵ quyền các cấp, đưa chính quyền về tay nhân
dân; đồng thời tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến
tranh của đế quốc Mỹ, làm cho quân Mỹ không thể triển khai được âm mưu chính
trị và quân sự của chúng ở Việt Nam; từ đó đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc
Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền
Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.
Nguyên tắc của cuộc tổng công
kích và tổng khởi nghĩa là tập trung lực lượng quân sự và chính trị đến mức cao
nhất, một cách hợp lý nhất, tiến công mãnh liệt vào những hướng chiến lược
chính; kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của
địch mà đánh những đòn quyết định, giành cho kỳ được thắng lợi ở những nơi
quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được nhân tố bất ngờ; phải biết giành thắng
lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả
và bẻ gãy các cuộc phản công của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng
lợi cao nhất.
Sau khi Hồ Chí Minh trở sang
Trung Quốc. Ở Bắc Kinh, có liên lạc hàng ngày. Ngày 20 tháng 1, Lê Đức Thọ sang
làm việc 2 tiếng. Ngày 25 tháng 1, Võ Nguyên Giáp (từ Hungari về) sang làm việc
hơn 1 tiếng. Hôm sau là giao thừa Mậu Thân. Trong suốt thời điểm mở màn quyết
định nhất của trận đánh, Chủ tịch Đảng không có thông tin và công cụ điều hành
gì. Vào lúc 6 giờ chiều ông chỉ nhận được điện chúc tết của Bộ Chính trị và
Trung ương.
Sau đó suốt đêm, vào khoảnh
khắc giao thừa khi cuộc tấn công bắt đầu cho đến sáng ngày mùng một Tết, Hồ Chí
Minh chỉ nghe tin qua đài phát thanh. Vũ Kỳ kể “phải đến gần hết sáng mùng một
Tết Mậu Thân” (tức là lúc các mũi tấn công chủ chốt vào sứ quán Mỹ, Dinh Độc
lập,.. .đã bị đẩy lùi), “mới có tin chiến thắng báo cáo Bác Hồ: “Đánh khắp miền
Nam”. (68) Trong hai ngày mùng 2 và mùng 3 Tết, mỗi ngày chỉ nhận được tin từ
mặt trận 1 lần, đến ngày 4 Tết Hồ Chí Minh phải yêu cầu Lãnh đạo Đảng và Nhà
nước báo cáo ngày 2 lần về tình hình cuộc tấn công (69).
Những gì trình bày trong Hội
nghị Trung ương 14 tháng 1 năm 1968 và thực tế chiến dịch có thể hình dung ý
tưởng phương án tấn công của Lê Duẩn đại ý như sau:
Các đơn vị quân chủ lực chính
qui tiến hành một số chiến dịch tại các chiến trường quan trọng để kéo binh lực
chủ lực của địch ra ngoài đô thị, tạo điều kiện đánh gục các đơn vị chủ lực
địch sau đó đánh địch phản kích.
Mũi chính của chiến dịch là các
cuộc tấn công vào các thành phố Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Biệt động, ém sẵn đánh
trước, các tiểu đoàn chủ lực mũi nhọn và thanh niên sinh viên sẽ tiếp quản và
hỗ trợ chiếm lĩnh trận địa để đánh địch phản công.
Phát động quần chúng đô thị nổi
dậy khởi nghĩa với qui mô hàng triệu người và vận động binh lính, nhân viên đối
phương để nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang tại chỗ trong thời gian
ngắn. Đánh sập bộ máy quân sự và hành chính đầu não của địch, làm rối loạn và
tê liệt bộ máy chiến tranh của địch. Chiếm lấy dự trữ chiến lược của địch để
phát triển thật nhanh cả lực lượng cả chính trị và quân sự. Lập chính quyền
cách mạng của cộng sản ở địa phương và chính quyền liên hiệp dân tộc ở trung
ương.
Trên toàn miền Nam, ở cả thành
thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi cũng tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt để
phối hợp và trợ lực cho mũi ở các thành phố chính. Đánh phá các hậu cứ, cơ sở
hậu cần, trung tâm thông tin, phương tiện giao thông vận tải, phá tan hệ thống
ấp chiến lược ở nông thôn, dành chính quyền ở cơ sở.
So với kế hoạch trên, thực tế
của đợt 1 chiến dịch Mậu Thân diễn ra khác hẳn. Phần đầu có vẻ thuận lợi: từ
Thu-Đông 1967, các chiến trường đã mở các hoạt động tạo thế cho Tổng tấn công.
Nổi bật nhất là chiến dịch Lộc Ninh – đường 13 đánh vào quân Mỹ, chiến dịch Đắc
Tô đánh vào quân chủ lực Sài Gòn và quân Mỹ tiếp viện, mở chiến dịch Bắc Lào,
bao vây tấn công cứ điểm Khe Sanh. Các cuộc tấn công này đã hướng được sự chú ý
của đối phương ra các vùng xa đô thị, mục tiêu chính của Tổng tấn công.
Phần tiếp theo bắt đầu trục
trặc: do sai khác về lịch âm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (đêm giao thừa là 30
tháng 1 năm 1968), và Việt Nam Cộng hoà (đêm giao thừa là 31 tháng 1 năm 1968)
nên nhận được lệnh tấn công “đêm giao thừa”, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm
1968, cuộc tổng tấn công và nổi dậy bắt đầu nổ ra ở các tỉnh Duyên hải trung Bộ
và Tây Nguyên. Trong khi ở các tỉnh thành cuộc chiến diễn ra thuận lợi thì ở Đà
Nẵng cả các mũi bộ đội và quần chúng bị đánh chặn ngay trên đường tiến vào
thành phố. Một trong 3 mục tiêu chủ chốt của cuộc Tổng tấn công đã thất bại
ngay từ bước đầu.
Giai đoạn chủ chốt thì thất
bại: đêm 30 tháng 1, đợt tấn công nhắm vào các tỉnh lỵ, thành phố lớn và thị
trấn huyện lỵ còn lại. Không mở đường được cho các cuộc khởi nghĩa nổi dậy đồng
loạt của nhân dân tại các đô thị như dự định của Lê Duẩn, lực lượng quân giải
phóng gây cho quân địch những choáng váng và thiệt hại ban đầu rồi nhanh chóng
bị đẩy ra khỏi các mục tiêu quan trọng.
Tại Huế, lực lượng cách mạng
đánh chiếm được hầu hết các mục tiêu đầu não của địch và cố thủ trong thành cổ
cho đến 24 tháng 2 với thiệt hại to lớn cho cả nhân dân và các kiến trúc lịch
sử. Ở Sài Gòn, 7/9 mục tiêu đề ra bị tấn công, nhưng ngoài 2 mũi đánh vào đài
phát thanh và sứ quán Mỹ đánh được vào trong và chiếm giữ một thời gian, các
mũi khác không đạt được mục tiêu. Hầu hết lực lượng biệt động ở các mũi đột phá
bị chết và bị bắt trên chiến trường. Cuộc chiến đấu trong các khu phố và ngoại
ô còn kéo dài ít lâu gây tổn thất cho cả 2 phía và nhân dân. (70, 71).
Sau mấy ngày tấn công, tối ngày
4 tháng 2 năm 1968, Thường vụ Trung ương Cục nhận định tình hình: “Cuộc tấn
công ở khu trọng điểm Miền chưa đạt yêu cầu về quân sự và chính trị. Nhiều tiểu
đoàn mũi nhọn chưa vào được nội thành để tiếp sức cho các đội biệt động, do đó
chưa dứt điểm các mục tiêu chính. Quân sự phối hợp chưa chặt, đánh chưa tốt nên
chưa trở thành đòn xeo mạnh để phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa, làm
biến đổi căn bản cục diện ở thủ đô. Rõ ràng ta đã mất một thời cơ cụ thể để
hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang do trung ương giao cho” (72).
Các chỉ đạo tiếp theo của Trung
ương Cục như “giải phóng toàn bộ vùng nông thôn từ phía sau ra phía trước,
quét sạch toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền cơ sở và bộ máy tề điệp, thành lập
chính quyền cách mạng,… triệt phá đường xá, cầu cống, chiếm giữa các nơi hiểm
yếu,… đánh cướp lấy hoặc phá triệt để các kho đạn dược, vũ khí, chất đốt, lương
thực, các nhà máy gạo trong và ngoài thành phố,… kiên quyết chiếm và khống chế
sân bay Tân Sơn Nhất, thường xuyên đánh phá sân bay Biên Hòa,.. .chủ lực phía
sau phải móc thật chặt với phía trước, tạo thời cơ tiêu diệt từng đơn vị lớn
quân ngụy về ứng cứu hoặc diệt thật gọn từng đơn vị quân Mỹ bung ra phản
kích,…” (73) đều không thực hiện được, cuộc tấn công đã nhanh chóng hụt hơi.
Đến đây kế hoạch bắt đầu bị
thay đổi nghiêm trọng. Trong kế hoạch tiến công chiến lược đã thông qua các Hội
nghị Bộ chính trị trước đó chỉ có “giai đoạn 2” là đợt chính cao điểm là Tết
Mậu Thân, tiến hành tổng công kích – tổng khởi nghĩa ở các đô thị và vùng nông
thôn cả ở đồng bằng và miền núi mà không có tiến hành tiếp các đợt tấn công bồi
thêm (74 – trang 127). Nhưng đứng trước một phần thành công chính trị và thất
vọng trước thất bại hoàn toàn của nổi dậy ở đô thị, Lê Duẩn kiên trì chỉ đạo
tiến hành cuộc tấn công thứ hai và thứ ba trong hoàn cảnh không còn yếu tố bất
ngờ, và thực lực chưa được củng cố.
Đợt tổng tấn công và nổi dậy
lần hai bắt đầu ngày 4 tháng 5 nhắm vào 119 căn cứ quân sự, thành phố và đô
thị. Tại Sài Gòn, quận 8 bị hủy hoại, một số cơ sở cách mạng và nhân dân tham
gia chiến đấu nhưng cư dân đô thành không xuống đường khởi nghĩa. Tháng 8 năm
1968, Bộ Chính trị ra Nghị quyết: “Về tổng khởi nghĩa, tổng công kích ở miền
Nam.”
Đợt tổng tấn công và nổi dậy
chịu nhiều thiệt hại nhất cho phía quân giải phóng là đợt thứ 3 bắt đầu ngày 17
tháng 8 và kết thúc cuối tháng 9 năm 1968. Để tạo sức ép đàm phán và tác động
đến chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ vừa bắt đầu, lực lượng quân giải phóng nã
pháo vào các kho tàng khí tài của quân Mỹ và phối hợp tấn công trên toàn miền
Nam. Để bảo vệ Sài Gòn khỏi các đòn tấn công liên tiếp, Mỹ rải bom B52 trên
diện rộng ở các vùng phụ cận.
Một tháng sau khi đợt tấn công
thứ 3 chấm dứt, Tổng thống Johnson tuyên bố ngừng ném bom bắt đầu cuộc đàm phán
bốn bên vào đầu tháng 11 năm 1968. Tháng 8 năm 1968 Bộ Chính trị họp kiểm điểm
lại tình hình cuộc Tổng tấn công và đề ra nhiệm vụ mới, lúc này quyết tâm đã
xẹp xuống hẳn, không còn thấy nói đến những mục tiêu dứt điểm như “đánh đổ
nguỵ quyền các cấp, đưa chính quyền về tay nhân dân… đập tan ý chí xâm lược của
Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối
với miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà” mà nhiệm vụ đưa ra mang tính
khẩu hiệu hơn, thậm chí đã nói đến chuyện chiến đấu lâu dài.
Với việc Nghị quyết này coi “Tổng
công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình tiến công chiến lược rất quyết liệt
và phức tạp, kết hợp tiến công quân sự và khởi nghĩa của quân chúng, vận dụng
ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược và có phối hợp với tiến công ngoại
giao” đã đánh dấu chấm hết cho hết câu chuyện làm “một cú bombarde cho
các yếu tổ chính trị tung tóe ra”của Lê Duẩn (75).
Ngày 9 tháng 11 năm 1968, Bộ
Chính trị ra chỉ thị “Bổ xung một sổ điểm cho Nghị quyết tháng 8 năm 1968 về
Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định”. Điểm lạ kỳ là
chỉ thị này có câu nhắc lại rằng “Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 8 -1968 đã
đề ra nhiệm vụ trước mắt là: “Tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa
nhằm giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời có sự
chuẩn bị mọi mặt để kiên trì kháng chiến đánh địch và thắng địch trong tình
hình chiến tranh kéo dài, thực hiện quyết tâm của Đảng ta là kháng chiến cho
đến khi thực hiện được những mục tiêu cơ bản đã đề ra là độc lập, dân chủ, hoà
bình, trung lập ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà ” (76).
Thực ra nhiệm vụ trước mắt
trong nghị quyết tháng 8 đề ra khác hẳn: “Nhiệm vụ trước mắt của ta là động
viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền,
phát huy thắng lợi đã đạt được, ra sức tăng cường lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang của ta, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy
mạnh thế tiến công toàn diện bằng quân sự và chính trị, bằng ba mũi giáp công,
kết hợp với tiến công ngoại giao, làm cho địch thua to hơn nữa trên tất cả các
mặt, đạt cho được những mục tiêu chiến lược đã đề ra, giành thắng lợi quyết
định về ta, đồng thời tạo mọi điều kiện và luôn luôn sẵn sàng về mọi mặt để
đánh thắng địch nếu chúng kéo dài hoặc mở rộng chiến tranh.
Trước mắt, nếu âm mưu của địch
là Mỹ rút khỏi miền Nam mà lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền vẫn mạnh, hoặc bị
bức bách phải rút quân nhanh khỏi miền Nam vì những lý do quan trọng nào đó,
trong lúc lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền cơ bản như hiện nay; thì nội dung cơ
bản nhất của thắng lợi quyết định về phía ta là: Mỹ phải rút hết quân đội khỏi
miền Nam mà lực lượng chính trị và quân sự của ta phải mạnh hơn lực lượng còn
lại của nguỵ quân, nguỵ quyền. Lực lượng quân sự và chính trị của ta phải làm
chủ đại bộ phận nông thôn, các vùng chiến lược quan trọng, các vùng xung quanh
đô thị và làm chủ một phần các đô thị, chủ yếu là ở cơ sở” (77).
Như vậy, với nghị quyết Bộ
Chính trị tháng 8, nhiệm vụ đã dãn ra, rộng hơn. Đến Chỉ thị của Bộ Chính trị tháng
11, thì mục tiêu lại mở ra mênh mông, không còn trong phạm vi một chiến dịch
nữa mà là của cả một cuộc chiến tranh. Thực sự, đây chỉ là cách tháo dần ra
khỏi các cam kết quá tham vọng từ khi lên kế họach tổng tấn công, nổi dậy.
Kết cuộc cả ba cuộc tổng tấn
công ác liệt không đạt được mục tiêu mà nhóm lãnh đạo giáo điều trong Bộ Chính
trị mong đợi là lật đổ chính quyền Sài Gòn bằng phong trào đồng khởi của nhân
dân đô thị, cũng không đánh sụp sống lưng quân đội Mỹ bằng các đòn hiểm đánh
vào đầu não chỉ huy và căn cứ quân sự.
Thành công đạt được thật trớ
trêu lại chính là những gì mà nhóm xét lại, đã bị đàn áp ngay trước cuộc tấn
công, kiên quyết yêu cầu, đó là ngồi vào bàn đàm phán. Trong khi đòn tấn công
làm choáng váng chính quyền Mỹ và thúc giục nhân dân Mỹ ủng hộ giải pháp kết
thúc chiến tranh Việt Nam thông qua đàm phán thì chính những nỗ lực đến cùng
của những người lãnh đạo Hà Nội cũng buộc họ hiểu ra rằng với tương quan lực
lượng lúc đó, chưa thể dùng vũ lực dành thắng lợi quyết định thông qua tấn công
trực diện và chớp nhoáng ở đô thị. Vì vậy, đàm phán là giải pháp có triển vọng
nhất.
Thắng lợi chính của đợt Tổng
tấn công là đánh vào tâm lý, tư tưởng của Mỹ. Trong khi lãnh đạo Việt Nam trông
đợi chính quyên Sài Gòn sụp đổ khi nhân dân nổi dậy thì điều xảy ra lại là tinh
thần chính quyền Mỹ suy sụp trước các đòn công kích quân sự. Một tháng sau khi
đợt tấn công đầu tiên chấm dứt, ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng Thống Mỹ Johnson
đọc diễn văn trên đài truyền hình đơn phương tuyên bố giới hạn ném bom miền Bắc
đến vĩ tuyến 20 và không tham gia vận động tranh cử khi hết nhiệm kì. Ông nói: “Mỹ
sẵn sàng phái các đại diện của mình đến bất kì diễn đàn nào, vào bất kì lúc nào
để đàm phán về các biện pháp đưa cuộc chiến tranh bẩn thỉu này đến kết thúc.”
Hơn một tuần sau đợt tấn công
thứ hai mở màn, nhóm lãnh đạo giáo điều ở Hà Nội cũng phải tự chấp nhận điều mà
họ từ chối trước đây là ngồi vào bàn đàm phán. Nhà nghiên cứu người Nga Gaiduck
viết: “Ngày 3 tháng 4 năm 1968, khi đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát
đi lời tuyên bố với Chính phủ Mỹ: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
tuyên bố sẵn sàng phái các đại diện của mình đến bàn đàm phán, với điều kiện Mỹ
chấm dứt vô điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh chống Bắc Việt
Nam để các cơ hội đàm phản có thể bắt đầu”. Ngày 13 tháng 5, đại diện của
Việt Nam DCCH và chính quyền Mỹ gặp nhau ở khách sạn Majestic ở Pari, bắt đầu
cuộc đàm phán gay go và kéo dài.
Hoàng Văn Hoan cho rằng: “Lê
Duẩn tự ý tuyên bố sẽ cử Đại biểu đàm phán với Mỹ. Lúc này Hồ Chủ tịch đang
dưỡng bệnh ở Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin này, liền đến hỏi Hồ
Chủ Tịch, Hồ Chủ tịch cũng ngẩn cả người ra và nói là không biết gì về việc
này. Đàm phán với Mỹ để giải quyết vấn đề Việt Nam là một việc cực kỳ quan
trọng, đáng lẽ Lê Duẩn phải đích thân đến Bắc Kinh báo cáo với Hồ Chủ tịch để
cùng trao đổi ý kiến với Trung Quốc, nhưng Lê Duẩn không làm như thế, mà lại tự
tiện trả lời Giôn- xơn một cách vội vàng như vậy là vì sao?” (78)
Không chỉ Trung Quốc ngạc
nhiên, mà dường như còn cả Washington mà Mascơva cũng bất ngờ trước mức độ phản
ứng nhanh của Hà Nội đối với các sáng kiến vì hoà bình của Mỹ (79). Đương nhiên
một người hãnh tiến như Lê Duẩn không bao giờ mất mặt đi bàn với Hồ Chí Minh về
một quyết định mà trước đây ông ta đã phản đối đến cùng, nhất là sau khi đã ép
buộc Hồ Chí Minh phải chấp nhận cuộc tổng tấn công mà Lê Duẩn tin chắc sẽ đem
lại cho ông thắng lợi quân sự vẻ vang nhưng kết cục lại ngược lại. Thế thì dám
chủ động quyết định đánh, cũng phải tự động quyết định hòa đàm mà thôi.
(Còn tiếp)
–
45. Biên niên sự kiện lịch sử
lực lượng an ninh nhân dân 1954-1975. NXB Công an Nhân dân. Hà Nội. 1997.
46. Hồ Chí Minh. Diễn văn khai
mạc lớp học lý luận khóa 1 trường Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập II,
1957. Trang 67-78 NXB. Chính trị Quốc gia 2009.
47. Sophie Quinn Judge. The
Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair,
1967-1968. Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh
hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ
chống Đảng 1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt
đăng trên talawas.
48. Sophie Quinn Judge. The
Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair,
1967-1968. Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh
hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ
chống Đảng 1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt
đăng trên talawas.
49. Thảo luận giữa Chu Ân Lai,
Trần Nghị, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Bắc Kinh ngày 12 tháng 4 năm 1967.
50. Thảo luận giữa Chu Ân Lai,
Trần Nghị, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Bắc Kinh ngày 12 tháng 4 năm 1967.
51. Vũ Thư Hiên. Đêm giữa ban
ngày; hồi ký chính trị của một người không làm chính trị Westminster, CA Văn
nghệ 1997.
52. Sophie Quinn Judge. The Ideological
Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair, 1967-1968.
Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng
ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ chống Đảng
1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt đăng trên
talawas.
53. Sophie Quinn Judge. The
Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair,
1967-1968. Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh
hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ
chống Đảng 1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt
đăng trên talawas.
54. Lê Đức Thọ, xây dựng Đảng
kiểu mới Mác-Xít – Lê Nin – Nít vững mạnh của giai cấp công nhân. Tạp chí xây
dựng Đảng số 1 năm 1968.
55. Hồi ký Trần Quỳnh: Những Kỷ
niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
56. Lê Đức Thọ. Một số vấn đề
về tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân đội. NXB Sự Thật Hà Nội 1989.
57. Đồng chí Lê Đức Thọ Ủy viên
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Thông báo với cán bộ cao, trung cấp về tình hình
nhóm chống Đảng chiều 17/2/1968.
58. Đồng chí Lê Đức Thọ Ủy viên
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Thông báo với cán bộ cao, trung cấp về tình hình
nhóm chống Đảng chiều 17/2/1968.
59. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu
Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
60. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
61. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu
Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
62. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu
Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
63. Bài nói chuyện của đồng chí
Lê Duẩn tại hội nghị TW lần thứ 14 Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn
tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2003, Tập 29.
64. Bài nói chuyện của đồng chí
Lê Duẩn tại hội nghị TW lần thứ 14 Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn
tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2003, Tập 29.
65. Trương Minh Dục. Cuộc nổi
dậy làm chủ 76 ngày của nhân dân thành phố Đà Nẵng – đỉnh cao của phong trào đô
thị thời kỳ “chiến tranh cục bộ”. Tạp chí Lịch sử Quân sự 6/1996.
66. Lê Duẩn. Thư vào Nam. Thư
gửi Đảng Bộ Sài Gòn – Gia Định 1/7/1967.
67. Bài nói chuyện của đồng chí
Lê Duẩn tại hội nghị TW lần thứ 14 Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn
tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2003, Tập 29.
68. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu
Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
69. Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ
nhà, Lao động số 19+20. Ngày 23/01/2009.
70. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
71. Elliott, the Vietnamese
War, 2:1101-1119; 2:1126-1145.
72. R. Adzubey, B. Evreinob, S.
Khruseb. A. Sevelenco, E. Venchinski, Hồi Ký Khrutsốp NXB Vagriuus. 1997.
73. R. Adzubey, B. Evreinob, S.
Khruseb. A. Sevelenco, E. Venchinski, Hồi Ký Khrutsốp NXB Vagriuus. 1997.
74. Hồ Khang. Tết Mậu Thân 1968
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Chính trị Quốc gia
2008.
75. Trần Bạch Đằng Mậu Thân –
Cuộc tổng diễn tập chiến lược. Tạp chí Lịch sử quân sự số 2, 1988.
76. Chỉ thị của Bộ Chính trị
ngày 9 tháng 11 năm 1968 Bổ xung một số điểm cho Nghị quyết tháng 8 năm 1968 về
Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định. Văn kiện Đảng
Toàn tập. Tập 29. NXB Chính trị quốc gia. 2003.
77. Nghị quyết của Bộ Chính trị
về Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa ở miền Nam tháng 8 năm 1968. Văn kiện Đảng
Toàn tập. Tập 29. NXB Chính trị quốc gia. 2003.
78. Hoàng Văn Hoan. Giọt nước
trong đại dương: hồi kí cách mạng của Hoàng Văn Hoan. Nhà xuất bản Ngoại văn
Bắc Kinh, 1988, trang 420.
79. Ilya V. Gaiduk Liên bang Xô
Viết và chiến tranh Việt Nam.
—
* Xem:
------------------------------------------------------
CHUYỆN 'MẬU THÂN 68' & CUNG ĐÌNH CỘNG SẢN VIỆT NAM
No comments:
Post a Comment