Thursday 12 December 2013

NHỮNG NGƯỜI BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN HÔM NAY : SALMAN RUSHDIE (Salman Rushdie - Le Monde)




Chuyn ng: Chân Phương 
Da Màu   10.12.2013

Lời Người Dịch: Nhật báo Le Monde / Sélection Hebdomadaire (bài tuyển trong tuần) ngày 25-5-2013 đăng trong mục Débats (Tranh luận) ba tham luận của Salman Rushdie, Liao Yiwu, Philip Roth kèm lời giới thiệu của Nicolas Truong, Comment être dissident aujourd’hui? phác họa về hoạt động bất đồng chính kiến trong bối cảnh chính trị toàn cầu hôm nay. Cả ba ngòi bút nói trên đều cảnh giác về sự lơ là đáng ngại của phương Tây đối với cuộc đấu tranh chung cho các quyền làm người sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc và mặt trận kinh tế toàn cầu trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia và chính khách. Nếu trước đây phương Tây từng ngưỡng mộ và ủng hộ cuộc chiến đấu can đảm của Soljenitsyn, Sakharov, Havel, Mandela, Aung San Suu Kyi… hào quang của các nhà bất đồng chính kiến hôm nay đã nhạt mờ trước xu thế dân chủ hóa những phong trào quần chúng phản kháng lan rộng nhờ các mạng xã hội, đặc biệt là microbloggers, và không cần các gương mặt tiếng tăm phất cờ đi trước theo lối tranh đấu trước đây. Tuy nhiên đáng lo ngại hơn là thị trường và cuộc chạy đua tìm lợi nhuận khiến thiên hạ nhắm mắt bỏ qua thực tế tiêu cực của các chế độ phi nhân và nạn độc tài đảng trị, như Nicolas Trương có nêu lên nhận xét “les valeurs d’échange supplantent les valeurs morales dans le nouvel ordre économique” (các giá trị trao đổi đã thay thế các giá trị đạo đức trong trật tự kinh tế mới). Điển hình là sự bắt tay làm ăn của các nước Âu-Mỹ với Trung Quốc – như lời tố cáo của Liệu Diệc Vũ – quay mặt làm ngơ trước chính sách đàn áp tự do ngôn luận và các quyền công dân của chế độ toàn trị Bắc Kinh.

* * *

Sau bản dịch giới thiệu Liệu Diệc Vũ, mời các bạn đọc tiếp tham luận của Salman Rushdie về vấn đề bất đồng chính kiến. Không cần dài dòng về tiểu thuyết gia gốc Ấn này, người đã nổi tiếng toàn cầu sau vụ fatwa Hồi giáo vì đã xúc phạm giáo chủ trong cuốn The Satanic Verses và cũng là tác giả của Midnight’s Children – một trong những tiểu thuyết hàng đầu của hậu bán thế kỷ 20. Với kinh nghiệm về cuộc chiến Ấn độ-Pakistan do xung đột tôn giáo, và bi kịch bản thân với các thế lực Hồi giáo cuồng tín đã kết án tử hình ông, Salman Rushdie là một tiếng nói quốc tế luôn sát cánh với các ngòi bút bất đồng chính kiến. Các độc giả từng sống dưới chế độ cộng sản sẽ tìm thấy ở ông một đồng minh đầy nhiệt tình đã quan tâm liên tục đến số phận các ngòi bút dưới ách toàn trị. Ông từng nhắc lời Milan Kundera “Cuộc tranh đấu giữa con người và quyền lực là cuộc tranh đấu của ký ức chống sự lãng quên” (trong tiểu luận Imaginary Homelands, 1991). Trong bài tham luận dưới đây nổi bật một ý thức thời đại bên cạnh một lương tâm toàn cầu đã không ngừng kêu đòi tự do tư tưởng và ngôn luận. Nếu trước đây Rushdie chú ý đến các nhà văn Nga và Đông Âu, hiện nay ông đang theo dõi sinh hoạt tư tưởng và văn học ở Á châu, đặc biệt là Nam Á và Trung Quốc. Ông rất minh bạch về chức năng chính trị của văn học, nhất là tiểu thuyết: … miêu tả tự nó là một hành động chính trị; cũng như… tiểu thuyết là một cách phủ nhận phiên bản chính thức về sự thật của các nhà chính khách. (Imaginary Homelands)

Tóm lại, Salman Rushdie cũng như Liệu Diệc Vũ kêu gọi người đọc lên tiếng. Thái độ tích cực này sẽ biến từng người công dân thành chứng nhân có ý thức chống lại các âm mưu đánh tráo hoặc bôi xóa sự thật lịch sử của các chế độ toàn trị và bạo quyền.

Chân Phương

 *

Can đảm chính trị, một đức tính ngày nay bị nghi ngờ

Hình như ta dễ dàng khâm phục sự gan dạ thể xác hơn là sự can đảm tinh thần vào thời buổi loạn thế này. Chúng ta ca ngợi người mang nón cao bồi can cường leo qua rào chắn để cứu nguy các nạn nhân lúc Boston bị đặt chất nổ trong lúc những kẻ khác tháo chạy. Nhưng khó hơn cho chúng ta khi muốn công nhận lòng can đảm ở các vị có tinh thần trách nhiệm chính trị, trừ Nelson Mandela và Aung San Suu Kyi ra. Có lẽ chúng ta đã thấy biết quá nhiều, và bị các trò thỏa hiệp khó tránh với quyền lực đẩy ta vào thói hoài nghi nhạo báng (cynisme). Còn đâu cái thời của Gandhi với Lincoln!

Điều còn lạ lùng hơn là chúng ta lại đi ngờ vực những ai có thái độ chống các lạm dụng quyền lực hay giáo điều. Trước đây đâu có như vậy. Các ngòi bút và trí thức chống cộng, như Alexander Soljenitsyn và Andrei Sakharov, được ngưỡng mộ rộng rãi vì lập trường của họ. Nhà thơ Osip Mandelstam được khâm phục vì đã viết bài thơ châm biếm Stalin vào năm 1933. Vị lãnh tụ đáng gờm ấy được miêu tả bằng những từ dũng cảm: “Lúc ông ta cười, râu mép động đậy như loài gián”. Bài thơ ấy khiến thi sĩ bị tù đày và sau cùng chết trong một trại lao động xô viết.

Cũng gần đây thôi, vào năm 1989 hình ảnh một người đang xách hai túi thực phẩm dám chặn đường xe tăng giữa Thiên An Môn đã gần như tức thời trở thành biểu tượng toàn cầu của lòng can đảm. Sau đó hình như sự thế đã đổi khác. “Người chặn xe tăng” đã rơi vào quên lãng ở Trung Quốc; và các người biểu tình cỗ vũ cho dân chủ, kể cả những ai đã bỏ mạng trong mấy vụ thảm sát hai ngày 3 và 4 tháng 6 -1989, đã bị giới cầm quyền Bắc Kinh tố cáo gán cho tội chống phá cách mạng.

Thuật diễn giải lại các sự việc là cuộc tranh chấp không ngừng và nó làm rối mù khả năng lĩnh hội của chúng ta khi phán xét những người “can đảm”. Đấy là cách nhà cầm quyền Trung quốc xử lý những kẻ chống đối có danh tiếng nhất. Thói kết án “nghịch tặc” gán cho nhà cầm bút Lưu Hiểu Ba và tội trốn thuế gán cho nghệ sĩ Ngải Vị Vị là những mưu toan cố tình nhằm xóa nhòa lòng can đảm của họ và biến họ thành tội đồ.

Ở Nga, ảnh hưởng của giáo hội Chính Thống mạnh đến nỗi các thành viên bị cầm tù trong ban nhạc Pussy Riot còn bị dư luận nói chung kết tội xúc phạm luân lý vì đã trình diễn sự phản kháng lẫy lừng của họ nơi các khuôn viên của giáo hội. Quan điểm họ cho rằng giới lãnh đạo giáo hội Nga có liên hệ quyền lợi quá khăng khít với tổng thống Putin đã bị bọn người bài bác đông đảo lờ đi, và hành động của ban nhạc thay vì được khen can đảm lại bị cho là thất cách.

Hai năm trước ở Pakistan, cựu thống đốc Punjab là Salman Taseer đã bảo vệ Asia Bibi, một phụ nữ theo đạo Thiên Chúa bị kết án tử hình sai lầm vì pháp luật khắt khe của địa phương đối với tội miệt thị tôn giáo. Do đó ông bị một người bảo vệ của mình ám sát. Tay này, Mumtaz Qadri, lại được hoan nghênh và được thiên hạ đón bằng trận mưa hoa hồng trên đường đến tòa án. Về phần Salman Taseer, ông phải chịu nhiều chỉ trích và dư luận đã chống báng ông.

Tháng Hai 2012, một ký giả kiêm thi sĩ ở Ảrập Sau-đi là Hamza Kashgari đã phổ biến ba ý kiến trên Twitter về nhà tiên tri Mahomet. Sau đó ông khẳng định rằng “đã giành lại quyền” tự do tư tưởng và ngôn luận của mình. Chẳng có bao nhiêu người ủng hộ ông, ông bị kết án phản đạo và có lắm kẻ lên tiếng đòi xử tử ông. Hiện nay ông vẫn ngồi tù.

Các nhà văn và trí thức thời Khai Sáng ở Pháp cũng đã thách đố sự chính thống tôn giáo (orthodoxie religieuse) của thời đại họ, và qua đó sáng lập khái niệm hiện đại về tự do tư tưởng. Voltaire, Diderot, Rousseau với nhiều nhân vật khác trở thành những người hùng trí thức của chúng ta. Khốn khổ thay, chẳng có mấy người trong thế giới Hồi giáo dám nói về Hamra Kashgari như thế.

Tư tưởng mới cho rằng phải kết tội các nhà văn, giáo chức đại học và nghệ sĩ đấu tranh chống sự chính thống tôn giáo và sự bất khoan thứ (intolerance) vì họ đã làm phiền thiên hạ một cách vô ích đang lan truyền nhanh chóng ở cả những xứ như Ấn độ – trước đây từng có thể tự hào về sự tự do trên khắp đất nước mình.

Những năm gần đây, đại họa gia của hội họa Ấn là Maqbool Fida Husain đã buộc phải lưu vong sang Dubai, rồi Luân Đôn nơi ông qua đời. Người ta trách ông đã thể hiện trần truồng nữ thần Ấn độ giáo Sarawasti ( trong lúc chỉ cần quan sát qua loa các tượng hình Ấn độ giáo cổ xưa là có thể nhận ra sự thoát y khá thường xuyên của nữ thần này, cho dù trên người bà đeo đầy ngọc ngà và trang sức.)

Cuốn tiểu thuyết lừng danh của Rohinton Mistry ( bản dịch tiếng Pháp Un si long voyage – Một chuyến đi quá dài , 2003), bị rút khỏi chương trình giảng dậy của đại học Bombay vì những kẻ cực đoan địa phương bài bác nội dung tiểu thuyết. Giáo sư Ashis Nandy bị tấn công vì đã phát biểu các ý tưởng không được chính thống lắm về sự đồi trụy của các giai cấp thấp hèn. Và trong mỗi trường hợp như thế, dư luận chính thức có vẻ đã thu thập sự đồng tình của nhiều bình luận viên cùng một phần quan trọng của dư luận đường phố khi kết luận rằng các nghệ sĩ và giới chức đại học ấy đã tự mình gây ra những phiền lụy nọ và không nên đổ lỗi người khác. Những kẻ mà vào các thời điểm khác trước đây sẽ được ngợi ca là có đầu óc độc lập không giống ai bây giờ càng lúc càng được nghe nhiều người khuyên can: “Mi nên ngồi xuống đi, không khéo mi sẽ làm lật ghe chìm xuồng.”

Đây là thời buổi buồn nản đối với những ai tin vào quyền đẩy lùi các giới hạn của tự do, quyền thử thách rủi ro, cũng như đôi khi quyền biến đổi cách nhìn thế giới của các nghệ sĩ và các công dân bình thường đang bị áp bức.

Không còn gì khác ngoài việc tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của đức tính can đảm này và cố gắng bảo đảm làm thế nào các nạn nhân của sự đàn áp như Ngải Vị Vị, ban nhạc Pussy Riot, Hamza Kashgari, không bị tước đoạt thực chất của họ: những người đàn ông và đàn bà chiến đấu trên tuyến đầu của tự do. Bằng cách nào làm được việc này? Đóng góp chữ ký của bạn vào các kiến nghị chống lại cách đối xử của bạo quyền, tham gia vào các phong trào phản đối. Hãy lên tiếng. Mỗi sáng kiến dù nhỏ bé thế nào cũng có tầm quan trọng của nó.

Salman Rushdie


Nguồn: Nhật báo LE MONDE 25-5-2013, “Le courage politique, une vertu hier célébrée dont on se méfie à présent”. Gérard Meudal dịch nguyên tác sang Pháp văn. Bản dịch Việt ngữ có các đoạn in đậm do dịch giả nhấn mạnh. Bản dịch này cũng là món quà tặng nhỏ cho các trí thức Việt Nam can đảm đã lên tiếng cho dân chủ và nhân quyền lâu nay. –C.P.


-----------------------------------------

Chuyn ng: Chân Phương
Da Màu   5.12.2013

Lời Người Dịch: Nhật báo Le Monde / Sélection Hebdomadaire ( bài tuyển trong tuần) ngày 25-5-2013 đăng trong mục Débats (Tranh luận) ba tham luận của Salman Rushdie, Liao Yiwu, Philip Roth kèm lời giới thiệu của Nicolas Truong, Comment être dissident aujourd’hui? phác họa về hoạt động bất đồng chính kiến trong bối cảnh chính trị toàn cầu hôm nay.  Cả ba ngòi bút nói trên đều cảnh giác về sự lơ là đáng ngại của phương Tây đối với cuộc đấu tranh chung cho các quyền làm người sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc và mặt trận kinh tế toàn cầu trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia và chính khách. Nếu trước đây phương Tây từng ngưỡng mộ và ủng hộ cuộc chiến đấu can đảm của Soljenitsyn, Sakharov, Havel, Mandela, Aung San Suu Kyi… hào quang của các nhà bất đồng chính kiến hôm nay đã nhạt mờ trước xu thế dân chủ hóa những phong trào quần chúng phản kháng lan rộng nhờ các mạng xã hội, đặc biệt là  microbloggers, và không cần các gương mặt tiếng tăm phất cờ đi trước theo lối tranh đấu trước đây. Tuy nhiên đáng lo ngại hơn là thị trường và cuộc chạy đua tìm lợi nhuận khiến thiên hạ nhắm mắt bỏ qua thực tế tiêu cực của các chế độ phi nhân và nạn độc tài đảng trị, như Nicolas Trương  có nêu lên nhận xét  “les valeurs d’échange supplantent les valeurs morales dans le nouvel ordre économique” (các giá trị trao đổi đã thay thế các giá trị đạo đức trong trật tự kinh tế mới). Điển hình là sự bắt tay làm ăn của các nước Âu-Mỹ với Trung Quốc – như lời tố cáo của Liệu Diệc Vũ – quay mặt làm ngơ trước chính sách đàn áp tự do ngôn luận và các quyền công dân của chế độ toàn trị Bắc Kinh.

Nhưng bất đồng chính kiến không chỉ thuần túy phản kháng chính trị mà còn là một thái độ trí thức kèm theo tự do tư tưởng và tâm linh. Như Vaclav Havel đã từ khước nền văn minh thị trường chỉ nhằm “sản xuất liên tục hàng hóa và khuyến khích sự tiêu thụ”. Và lời kết của Nicolas Truong mở ra những hướng suy tưởng khác cho các độc giả đã quan tâm đến mục tranh luận này: Comme on le voit, la dissidence, ce n’est pas qu’une politique des droits de l’homme. C’est aussi une insurrection et une éthique des droits de l’âme. (Như ta nhận thấy, sự bất đồng chính kiến không chỉ quan tâm đến chính sách nhân quyền. Đó cũng là một sự nổi dậy đòi hỏi cũng như đạo lý cho các quyền của tâm linh).

—Chân Phương

*

Hỡi dân Pháp, các người đã làm gì với các giá trị của mình?
(Kinh doanh với Trung Quốc bất cần các quyền của con người)*

Viết về sự bất đồng chính kiến ở Trung Quốc cho công chúng nước Pháp là một việc làm phiền phức! Dân Pháp các người đã từng nhiệt liệt bênh vực tư tưởng Mao Trạch Đông (1893-1976) thời phong trào Mai 68, và đã ngưỡng mộ từ xa ngọn triều hồng kỳ uốn lượn nơi quảng trường Thiên An Môn. Khoảng cách khiến các người không nhận thấy rằng màu đỏ rất ngoạn mục ấy thật ra là một cuộc tắm máu. Các tai họa do Mao khích động – Mao, một trong những kẻ độc tài vĩ đại của thế kỷ 20 – đã để lại những thương tích quá sâu trong xã hội chúng tôi và không ai có thể biết được Trung Quốc có thể hồi phục hay không.

Các nhà sử học cố tìm cho ra con số người chết do nhiều thử nghiệm nhìn xa thấy rộng của Mao trực tiếp gây ra và họ không hoàn toàn thỏa thuận với nhau: hơn bốn mươi triệu mạng? Năm mươi triệu? Tám mươi triệu? Có những cái chết do nạn đói liên quan đến chính sách Đại Nhảy Vọt từ 1959 đến 1962, chết vì các thảm sát trong Cách mạng Văn hóa, vô số người vô tội bị xử bắn, và tất cả những ai thà tự sát còn hơn chịu tra tấn hay bị làm nhục, những kẻ bỏ mạng trong khi lội trốn ra Hương Cảng hoặc nơi các rừng nhiệt đới tìm đường sang Việt Nam hay Miến Điện, và còn biết bao trường hợp khác…

Vậy mà cho đến hôm nay, nhân vật Mao Trạch Đông vẫn còn được ưu ái trong ký ức của  nhiều người đương thời. Hình tượng Mao được bày bán khắp các chợ Trung Quốc như mấy ổ bánh mì petit pain, dưới dạng áo thun, tượng nhỏ, huy hiệu đeo cổ, và cuốn Mao tuyển màu đỏ nay lại thành một món thời trang.

Ai có gan làm như thế đối với Stalin hoặc Hitle? Ai dám mặc chiếc áo thun in hình hai tay này? Có ai nghĩ đến việc sao in lại các diễn văn của Franco hay Mussolini như một kiểu ngợi ca? Tại sao Mao lại thoát khỏi sự khinh tởm của cả thế giới? Bởi nền độc tài Trung Quốc xét cho cùng chưa bao giờ đổi thay bản chất từ ngày vị chủ tịch của nó qua đời năm 1976. Chế độ này đồng ý với các phương pháp máu me của Mao, tiếp tục tàn bạo, sát nhân, đạp lên các giá trị phổ quát như quyền tự do và sự an lạc cá nhân cũng như nhu cầu phát biểu bằng ngôn luận.

Nhưng người Pháp hãy tự an ủi: họ không phải là những kẻ duy nhất đã bị tên sát nhân siêu phàm ấy đánh lừa! Ngày 21 tháng 4 vừa rồi, giải Nobel Văn Học 2012 Mạc Ngôn đã tuyên bố lập lờ nước đôi khi đọc diễn văn trong một cuộc hội nghị do chính quyền Trung Quốc tổ chức: “Bóp méo, biếm họa, biến thành ác quỉ một nhân vật lịch sử vĩ đại như Mao Trạch Đông là một việc làm thiếu thông minh. Thật ra những ai ngày nay còn ước mong nói viết một cách tích cực về Mao sẽ gặp không ít phiền lụy.”

Chỉ có điều chân dung Mao vẫn còn trên mọi tờ giấy bạc Trung Quốc, và Mạc Ngôn có thể phát biểu tích cực về một trong những kẻ tội phạm lớn nhất của thế kỷ mà không bị bắt vào tù, trái lại còn được cấp công xa, nhà ở hạng đế vương, chức vụ thứ trưởng kèm với lương bổng tương xứng. Còn ngôi làng sinh quán của ông ta thì được biến thành công viên du lịch từ đó ông thu nhập thêm món tiền lời hậu hĩ. Tất cả các thứ đó do bàn tay nào trợ giúp?  Nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay chứ còn ai!
Bốn mươi năm trước, không ai tranh cãi trước tiếng nói của một nhà văn như Soljenitsyn (1918-2008), và lời ông tố cáo chế độ lao tù goulag xô viết đã làm các độc giả của ông kinh khiếp. Những ai trốn thoát khỏi địa ngục cộng sản được tiếp đón như anh hùng, và báo chí truyền đi các ý nghĩ của họ với chân dung in kèm. Tôi thì chẳng được cái may của Soljenitsyn. Nhưng cũng giống ông, tôi không coi tôi là kẻ bất đồng chính kiến mà đúng hơn là kẻ phản nghịch (rebel), và tôi cũng điên tiết như ông trước sự thờ ơ của các nước phương Tây khi họ không nhìn ra mối hiểm họa từ các vùng đất bao la đang nằm dưới gót giày bạo chúa kia. Trong cuộc chiến tranh lạnh, không ai phản bác các ý niệm Thiện (dân chủ) và Ác (độc tài). Ngày nay, đường viền các giá trị đã nhạt nhòa và mọi thứ chìm vào sự mù mờ phi thực chất.

Đấy kìa: Li Bifeng(?), người bạn thân của tôi, thi sĩ kiêm nhà văn đã từng chia bốn năm tù với tôi sau vụ tàn sát Thiên An Môn vào đầu thập niên 1990, nay lại ngồi tù ở Tứ Xuyên – quê quán của bọn này. Anh chịu án 12 năm cấm cố vào mùa thu 2012. Dĩ nhiên họ qui cho anh những tội phạm kinh tế, nhưng ai cũng biết cái tội duy nhất của anh là vẫn chung thủy với đại cuộc dân chủ và đã từng là bạn thân với tôi.

Anh còn chịu án tù nặng hơn người bạn chí thiết khác của tôi là Lưu Hiểu Ba – kẻ được chế độ nương tay phần nào vì hình phạt 11 năm tù đã mang đến cho Lưu giải Nobel Hòa Bình năm 2010. Nhưng hôm nay còn ai nhớ đến tên ông ở Pháp, có nhà trí thức nào nhảy ra cứu giúp ông, có vị Trung hoa học nào muốn can dự  để đòi tự do cho ông?

Ai cũng sợ mất chiếu khán nhập vào Trung Quốc, ai cũng sợ mất số tiền tài trợ cho đại học của mình khi đã góp công thiết lập một Viện Khổng học ở đấy, ai cũng sợ mất khả năng du hành đó đây tại Trung Quốc vào dịp các hội thảo – chỉ là cái cớ cho những yến tiệc linh đình nơi mấy khách sạn hạng sang.

Tôi dùng ngòi bút mình và phép thuật của văn chương giúp cho những thống khổ  của Trung Quốc  khỏi bị vùi chôn vào câm lặng, khiến cho nỗi bất công mà người Trung Quốc chúng tôi đã phải hứng chịu được biết đến ít nhiều: tại sao phải cảm thán các nạn nhân của chủ nghĩa quốc xã, của chính sách Stalin hay chủ nghĩa phát xít mà lại tiếp tục ca tụng sự phát triển kinh tế ở Trung Quốc? Chẳng lẽ lớp bì của chúng tôi không mềm mại bằng lớp da của quí vị?
 
Liệu Diệc Vũ

CHÚ THÍCH
Bị bắt năm 1990, Liệu Diệc Vũ  ngồi tù bốn năm vì đã tố giác vụ đàn áp ở Thiên An Môn. Trốn khỏi Trung Quốc năm 2011, ông đang sống lưu vong tại Bá linh. Tác phẩm sau cùng của ông xuất bản ở Pháp có tên là “Dans l’Empire des Ténèbres” (Trong lòng đế chế tăm tối), do nhà Bourin xuất bản.

*Francais, qu’avez-vous fait de vos valeurs? Commercer en Chine au mépris des droits là tên của bài viết trên báo Le Monde, mục Débats (25-5-2013). Marie Holzman dịch từ Trung văn sang tiếng Pháp. Chân Phương dịch từ Pháp văn sang Việt ngữ.

Bài đã đăng của Liêu Diệc Vũ :





No comments:

Post a Comment

View My Stats