Lê Tuấn Huy (pro&contra)
Tháng 12 7, 2013
Viết cho việc Kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XIII thông
qua Hiến pháp sửa đổi, và cho việc một giảng viên quân đội, đang làm luận án
tiến sỹ, liên lạc với tôi sau khi đọc Khảo
luận thứ hai về chính quyền.
*
Trước khi mang diện mạo như ngày nay dưới một số
hình thức khác nhau, đã có hai định chế làm luật ghi lại dấu ấn trong quá trình
tiến hóa của cơ quan lập pháp và của lịch sử loài người. Đó là Hội nghị Công
dân ở Hy Lạp, La Mã cổ đại, và Nghị viện ở nước Anh trung và cận đại. Cái đầu là
cơ quan lập pháp trực tiếp, cái sau là cơ quan lập pháp đại diện.
Với sự phát triển của cộng đồng lãnh thổ, lập pháp
toàn dân, với tư cách một định chế thường trực, đã ngày càng trở nên bất khả
ngay ở thời đại của nó. Đến thời phong kiến, trên tổng thể, lập pháp không còn
là định chế riêng.
Tuy nhiên, tại Anh, sau khi cho ra đời Đại Hiến
chương (Magna Carta, Great Charter, 1215), trong thế kỷ XIII và XIV, cũng
đã hình thành nên nghị viện. Ở những thế kỷ tiếp sau, kinh tế, văn hóa, xã hội
châu Âu có những bước phát triển vượt bậc. Nghị viện Anh quốc không tránh khỏi
sự tác động chính trị từ đó, và trở thành một trong những tuyến đầu chống lại
quyền lực lỗi thời của nhà vua và giới quý tộc cũ, góp phần làm nên cuộc Cách
mạng Vinh quang năm 1688, định hình nền quân chủ lập hiến.
Trong tiến trình chuẩn bị bước ngoặt này, John Locke
viết Khảo
luận thứ hai về chính quyền, công bố lần đầu năm 1689.
Sau khi mở đầu bằng lý lẽ bác bỏ kiểu nhà nước
truyền nối, Locke bàn về các quyền tự nhiên, về một số tiến trình kinh tế liên
quan, về các chính thể…, và kết thúc với việc giải thể chính quyền bằng sức
mạnh của nhân dân.
Có thể diễn giải tiến trình khiến chính quyền phải
giải thể từ việc xác định, rằng nhà nước không phải là cái tự dưng có quyền lực
mà mọi người mặc định phải chấp nhận và phục tùng. Ngược lại, chính mỗi con
người trong cộng đồng mới là cái đem lại cho nó điều đó, khi họ chấp nhận
chuyển giao quyền lực tự nhiên của mình cho chính quyền, để tránh tình trạng ai
cũng tự sử dụng uy quyền ở mức cao nhất đối với người khác. Việc chuyển giao
này diễn ra từ hình thức thô sơ nhất, là chính quyền của người cha, để tiến
triển thành chính quyền của xã hội.
Và như vậy, quyền lực nhà nước chỉ là loại quyền
lực được ủy thác, chứ không phải cái quyền lực mặc nhiên và tuyệt đối.
Sự chuyển giao vừa nói đưa con người và cộng đồng từ
trạng thái tự nhiên bước vào trạng thái xã hội. Nhưng dù trong
bối cảnh phi trạng thái tự nhiên, chính quyền vẫn phải tôn trọng các quyền
tự nhiên của con người, với những cái nổi bật nhất là quyền sinh mạng,
quyền tự do, quyền sở hữu. Bảo toàn các quyền này là mục đích của những chính
quyền chân chính. Xâm phạm các quyền này là mục đích của những chính thể
bất chính.
Một khi đã
xâm phạm các quyền của con người, chính quyền đã tự đặt mình vào trạng thái
chiến tranh với nhân dân, đẩy xã hội về lại trạng thái tự nhiên.
Dù vậy, trạng thái tự nhiên không phải là cái dễ
dàng tái diễn, vì một khi đã chuyển giao quyền lực vào tay cộng đồng, người ta
không thể rút lại cho mình (§243)[1]. Đồng thời, nhân dân lại luôn nhẫn nại với áp bức. Những
trường hợp riêng lẻ không khiến họ khác đi. Nhiều sự việc như thế có thể vẫn
khiến họ chịu đựng. Sự thiệt hại lớn hơn nữa, có lẽ họ cũng chưa sẵn sàng phản
kháng. Thế nhưng, một khi chúng trở nên phổ biến, cùng với xác tín rõ rệt về sự
xâm phạm, thì khó mà giữ cho họ bất động (§235, 230).
Đến khi đấy, quyền lực tối cao được ủy thác vào một
cá nhân hay một hội đồng sẽ bị chính những người đã ủy thác tước bỏ. Nhân dân
sẽ tự hành động với tư cách tối cao, lập nên chính thể mới hoặc giữ
chính thể cũ nhưng trao quyền lực vào tay những con người mới (§243).
Suốt quá trình ấy, có hai định chế mà Locke tập
trung vào như những cái khiến đi đến kết cục này, là quốc vương và cơ quan lập
pháp. Vai trò của chủ quân trước biến động của quốc gia, là rõ ràng. Còn lập
pháp, sao phải đặt nặng vấn đề khi nó vốn không thể vượt qua cái quyền uy mặc
định kia?
Đó là bởi, một khi đã tồn tại với tư cách đại diện,
lập pháp là nơi lưu giữ và công bố ý chí của xã hội, và cũng là cái linh hồn
tạo nên hình thể và sự thống nhất của chính quyền. Khi cơ quan này bị phá vỡ
hay giải thể, mọi sự vụ chính trị cũng theo đó mà kết thúc (§212).
Do vậy, đối với Locke, lập pháp bị hoán đổi
là nhóm nguyên nhân đầu tiên khiến chính quyền bị giải thể. Có bốn biểu hiện
khiến cơ quan này rơi vào tình trạng đó: 1. Quốc vương đặt ý chí độc đoán của
mình cho lập pháp công bố; 2. Quốc vương cản trở lập pháp nhóm họp; 3. Quốc
vương khiến cho cử tri hoặc cách tuyển cử bị hoán đổi mà không có sự châp thuận
của nhân dân; và 4. Lập pháp khiến nhân dân rơi vào cảnh khuất phục ngoại bang
(§214-217).
Trong nhóm nguyên nhân thực hiện trách nhiệm,
ngoài lập pháp, còn có việc hành pháp sao nhãng, bỏ mặc việc thực hiện luật
pháp. Và một khi luật pháp không còn được thực thi, cũng hiển nhiên xem như
chính quyền không còn tồn tại (§219).
Nhóm nguyên nhân khác khiến chính quyền biến động,
là sự phản loạn trách nhiệm. Đó là việc lập pháp hoặc hành pháp tối cao,
hoặc cả hai hành động trái ngược sự ủy thác của nhân dân, khi thay vì bảo vệ,
lại xâm đoạt sở hữu của người dân, tự biến mình thành ông chủ và định
đoạt tài sản của họ. Khi hai nơi này đặt quyền lực độc đoán vào tay kẻ khác
để áp bức người dân, cũng là một hành động chống lại sự ủy thác (§221).
Locke nói rằng một khi những nơi nắm giữ quyền lực
bị, hoặc tự hoán đổi mình, thì chính họ đã làm loạn chống lại nhân dân
(§227). Khi đó, họ tự đánh mất quyền lực mà nhân dân đặt vào, và nhân dân có
quyền khôi phục quyền tự do nguyên thủy của mình (§222).
Trước khi đề cập đến sự giải thể chính quyền, ở
những phần trước, Locke thường nói đến việc mọi người phải cáo kiện đến trời
cao khi không có sự phân xử thế tục một cách công minh. Đến phần cuối của tác
phẩm, người đọc sẽ hiểu, ông không khuyên nhân dân thụ động “kêu trời”, mà là
sau khi cáo với trời, đến lượt người dân phải tự đưa ra phán xét để bảo vệ mình
(§241-242). Lúc đấy, không tránh khỏi họ phải “đánh đấm” tương xứng với sự
“đánh đấm” của những kẻ áp bức (§235).
Với giải pháp đó, không phải Locke cổ xúy cho loại
bạo lực tuyệt đối. Ông nói rõ rằng học thuyết của mình, chủ trương quyền lực
nơi nhân dân, mới chính là cái để ngăn ngừa bạo loạn, vì chính quyền phải
biết rằng nó phải bảo toàn sở hữu của mọi người, nếu không, nhân dân sẽ phải
thực hiện quyền thiết lập một cơ quan lập pháp mới (§226). Nổi loạn của
người dân là điều răn đe mà Locke muốn nhà nước phải biết để tránh, để không
buộc nhân dân phải đi đến giải pháp cuối cùng, sau khi chính quyền đã làm loạn
trước bằng việc xâm đoạt những thứ mà nó phải bảo vệ cho họ.
Ngoài ý nghĩa chung của một tác phẩm kinh điển triết
học chính trị, Khảo luận thứ hai về chính quyền đặc biệt có giá trị với
những nơi mà ngày nay vẫn mang nhiều đặc trưng của hoàn cảnh ra
đời cuốn sách.
Về kinh tế, đó là bối cảnh của chủ nghĩa tư bản buổi
sơ khai và mông muội, tức sự vận hành của một nền kinh tế thị trường không
đầy đủ, và tước đoạt bằng sức mạnh phi kinh tế là chuyện phổ biến.
Trong đó, tích lũy đất đai, mà cũng là tích lũy tư hữu, diễn ra dưới hai hình
thức trái ngược nhau, là sự tích lũy tự nhiên bằng lao động và chiếm hữu, và sự
tích lũy bằng quyền lực và cưỡng đoạt. Nước Anh xưa cũng có hình thức sở hữu
toàn dân về đất đai, để rồi trên danh nghĩa đất công, nhà vua (quyền lực trung
ương) hay lãnh chúa (quyền lực đia phương) có quyền tước đoạt của nơi này hay người
này, để trao cho nơi khác hay người khác, chung phe nhóm (lợi ích) của mình.
Về chính trị, đó là sự tồn tại của một chính thể
dựa trên sự mặc định lịch sử và bất biến từ sự mặc định đó. Nhà vua
đương nhiên cai trị xã hội nhờ công lao của vương triều và do mệnh trời quy
định. Nghị viện thì có đó nhưng chỉ là cánh tay nối dài của chủ quân, không
phải là cơ chế thường trực và thực quyền, mà là chỉ nơi hợp thức hóa những
quyết định có sẵn của định chế tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện kia, bởi đa
phần “đại biểu” là người thân tín và có đặc quyền đặc lợi gắn liền với sự
chuyên chế ấy. Ngày nay, những thể chế lấy “lịch sử mệnh” (sứ mệnh lịch sử),
“dân tộc mệnh” hay “giai cấp mệnh” làm nền tảng cho sự lãnh đạo tuyệt đối
thì chẳng qua chỉ là thay ngôn từ cho cái thiên mệnh cai trị được Thượng
đế ban phong bất di bất dịch khi xưa.
Mâu thuẫn ngày càng trở gay gắt hơn giữa xu hướng
biến đổi của kinh tế với định hướng bất biến của chính trị, sẽ khiến
chính quyền ngày càng sử dụng những phương cách khắc nghiệt hơn để duy trì cái
phải thay đổi. Và càng như thế thì chủ thể vận dụng chúng cũng càng tự hoán
đổi, từ chính quyền chân chính trở thành chính quyền bất chính, từ sự giải thể
tự trong lòng nó đi đến sự giải thể của nhân dân. Quá trình đó cũng đồng thời
là quá trình tan rã xã hội, mà kết cục sẽ là định hình một xã hội mới,
với một chính quyền mới an toàn hơn cho mọi người. Thời của Locke đã vậy, mà
thời mang danh của bất kỳ ai cũng vậy.
Locke không nói đến sự tan rã về mặt văn hóa, đạo
đức, hay giáo dục…, mà diễn đạt sự tan rã xã hội về mặt chính trị.
Sự hoán đổi của cơ quan lập pháp, sự phản loạn của
chính quyền đối với những người đã ủy thác quyền lực cho mình, bằng cách tước
đoạt sở hữu của họ, chính là sự tan rã đó.
Thực thi luật pháp yếu kém, khiến xảy ra tình trạng
vô chính phủ khi người thừa hành luật pháp lẫn người dân đều thực thi luật tự
nhiên đối với sinh mạng người khác, chính là sự tan rã đó.
Khi chính quyền tự đặt mình vào trạng thái chiến
tranh với dân chúng bằng việc sử dụng loại bạo lực không có quyền dùng, ra
những luật không có thẩm quyền ra, chính là sự tan rã đó.
Ở thời hiện đại, sự tương đồng bối cảnh tan rã xã
hội càng được cụ thể hóa, đến độ đặc thù, mà có lẽ tư duy sắc bén của Locke
cũng khó lòng nghĩ đến.
Xưa, vua chúa công nhiên khẳng định phẩm giá và
quyền lực tối thượng, chỉ sau có Thượng đế. Nay, cũng là sự công nhiên nhưng là
công nhiên lập lờ, khi có một kiểu “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” có
luật định, nhưng đứng sau một quyền lực cao nhất khác (không kèm chữ “nhà
nước”), phi luật định nhưng quyền hạn vô biên và siêu tối thượng.
Xưa, người ta lấy đất công chuyển thành đất tư và
thẳng thắn với sự phân phong sở hữu đó. Nay, “sở hữu toàn dân” nơi những người
dân cụ thể được “chuyển nhượng” cho những người, những nhóm tư nhân được mang
danh công lợi mơ hồ.
Xưa, chính quyền không đồng bộ nên người dân phải
bột phát tự vệ. Nay, chính quyền hoàn chỉnh với lập pháp, hành pháp, tư pháp
vừa thống nhất, vừa có sự phân công và phối hợp để “chăm lo” tốt nhất, mà người
dân phải tự đứng ra định liệu mình cả theo kiểu tự
phát lẫn tự
giác[2].
Xưa, hành xử luật tự nhiên là để bảo toàn các quyền
tự nhiên, trong điều kiện thiếu vắng luật xã hội. Nay, giữa “rừng luật” người
ta lại sử dụng “luật rừng” để bảo toàn các quyền chuyên chế, cả ở phạm vi dân
sự lẫn hình sự.
Xưa, luật tự nhiên về sinh mạng là bởi phải “mạng
đổi mạng”. Nay, luật rừng về sinh mạng là để người dân liều
mạng để giữ lấy sinh mạng trước đe dọa mất mạng thường xuyên từ những người
phải bảo vệ nó, là để người dân đi đến chỗ tự đoạt mạng người đổi lấy mạng chó,
là để chính quyền trọng
vật mạng hơn nhân mạng.
Đương nhiên, còn nhiều thứ nữa có độ khác biệt giữa
xưa và nay về biểu hiện của sự tan rã xã hội về chính trị, nhưng đối với lập
pháp, những gì góp phần to lớn vào sự tan rã ấy, thì thời nào cũng thế. Đó là, do
tham vọng, sợ sệt hay tham nhũng mà cơ quan này cố nắm giữ một quyền lực tuyệt
đối, hay đặt nó vào tay người khác, áp nó lên cuộc sống, quyền tự do và tài sản
của nhân dân. Rồi thực thể tuyệt đối ấy lại tiếp tục gạ gẫm, đe dọa, hứa
hẹn để lôi kéo và sử dụng cơ quan này phục vụ cho mưu đồ của mình, để nhận
trước từ các thành viên lập pháp lời hứa là sẽ bỏ phiếu cho cái gì và sẽ ban
hành cái gì. Vào khi trạng thái chính trị đã như thế, nhân dân sớm muộn
cũng phải giành lại vị trí tối cao của mình (§222).
Vào thời của Locke, quyền thay đổi chính quyền bằng
lá phiếu chưa được chế định, tức chưa có biện pháp hòa bình để nhân dân “đuổi
chính phủ” (theo ngôn từ của Hồ Chí Minh, mà đúng từ ngữ phải là “đuổi chính
quyền”), nên ông phải khẳng định biện pháp vũ lực để cảnh báo.
Ngày nay, dù đã phát kiến phương pháp bất bạo động,
nhưng nếu thực chất quyền thay đổi chính quyền vẫn chỉ là như xưa, tức chỉ tồn
tại những quyền hiến định trên giấy, thì bối cảnh hiện diện của bạo lực vẫn còn
nguyên đấy – đặc biệt ở thể chế nào xác tín sự tồn tại của mình bằng vũ
lực – mà không thực thể bất bạo động nào có thể ngăn cản khi nó đã chín
muồi (và ngược lại, không thực thể bạo động nào có thể thúc ép khi nó không là
cái tất thiết).
Chủ nghĩa tư bản giãy hoài không chết bởi đã biết mở
con đường hòa bình và đa nguyên cho người dân thay đổi cả thể chế kinh tế lẫn
chính trị, cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ nghĩa xã hội không giãy cũng
chết bởi chỉ biết có con đường vũ lực và đơn nguyên, để người dân phải chấp
nhận và thuần phục những định chế “toàn năng” mặc nhiên và những quyết định
“lịch sử” sẵn có.
Marx không sai khi nói vũ khí phê phán không thể
thay thế cho sự phê phán bằng vũ khí. Nhưng trước đó, Locke đã bổ khuyết cho
ông, với việc vạch rõ phạm vi bối cảnh của hai loại phê phán này, ở sự tan rã
chính trị của xã hội và sự hoán đổi của lập pháp, cùng với sự chuyên chế của
chủ thể nắm trong tay quyền lực tối thượng.
Vấn
đề còn lại chính là nhận thức của giới quyền lực sẽ đẩy hiện thực vào bối cảnh
nào. Thay đổi hòa bình hay chuyển biến vũ lực đều là do họ. Chỉ là, trì hoãn
càng lâu, sự phân rã xã hội càng rộng, tàn phá kinh tế càng lớn, hậu quả chính
trị càng nặng, hụt hẫng chiến lược càng sâu.
29/11 – 05/12/2013
[1] Con số chỉ số tiết trong sách.
[2] Các link được dẫn chỉ là tượng trưng những sự việc gần đây
trong dòng sự việc cùng loại.
No comments:
Post a Comment