Trần Trung Đạo: Những suy nghĩ
về ngày 30/4 (phỏng vấn)
06.05.2012
Bài phỏng vấn dưới đây do nhà thơ Nguyễn Thị Thanh
Bình thực hiện. Một bản câu hỏi đã được gửi đến nhiều văn nghệ
sĩ trong và ngoài nước. Tiền Vệ sẽ lần lượt đăng tải loạt bài này.
Tiền Vệ
_______
TRẦN TRUNG ĐẠO: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4
Nguyễn Thị Thanh Bình: Tôi cố tình dành một khoảng trống
cho tên gọi ngày 30-4. Bạn là một cây viết cừ khôi, xin bạn thử tìm một tên gọi
khác cho ngày này, ngoài những chữ vẫn được gọi kêu thông thường như ngày Quốc
Hận, Tháng Tư Đen, ngày Giải Phóng hay ngày Đại Thắng Mùa Xuân...? Và tại sao
bạn lại muốn gọi như thế?
Trần Trung Đạo: Tôi không phải là “cây viết cừ khôi” nhưng
đúng ra là “cây bút yếu đuối” vì không muốn làm bạn mình buồn lòng. Tôi bận
quá, cố từ chối mà không được. Vả lại, như nhà thơ Thanh Nam viết “Một năm
người có mười hai tháng / Riêng một mình ta, chỉ tháng Tư” , ngày nào còn
nghĩ và buồn cho đất nước ngày đó là ngày 30-4. Cái ngày thê thảm đó đã đóng
băng trong ký ức của rất nhiều người, trong đó có tôi. Tùy theo cách nhìn, cách
gọi, mỗi người gọi ngày 30-4 bằng một tên khác nhau, với tôi ngày 30-4 còn nên
gọi là Ngày Phẫn Nộ. Chẳng những phía thua trận phẫn nộ mà cả nhiều người bên
thắng trận cũng phẫn nộ. Nếu ai để ý ánh mắt như rỉ máu của hàng ngàn người
lính VNCH đi bộ dọc đường Lê Văn Duyệt buổi chiều 30-4 mới thấy sự phẫn nộ đang
dâng cao trong lòng họ. Và trong số những người thắng trận, thế nào chẳng có
những người lặng lẽ buông súng ngồi xuống bên lề đường và sực nhớ ra mình đã
hết tuổi hai mươi. Nhìn Sài Gòn nguy nga, đẹp đẽ từ thành phố cho đến con người
so với một Hà Nội “thừa huy chương nhưng thiếu miếng ăn”, họ phẫn nộ khi chợt
khám phá ra chuyện “hạt gạo cắn làm hai” san sớt cho miền Nam đói khổ là chuyện
hoang đường.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Nhà thơ Nguyễn Duy ở Việt Nam,
với bài thơ “Nhìn từ xa... Tổ quốc” mà nhiều người vẫn tâm đắc, đã có lần viết
câu thơ sau đây trong bài “Đá ơi”: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến
tranh / Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Không biết bạn đồng cảm như thế
nào với thi sĩ về hai câu này, cũng như liệu bạn có thể cảm tác thêm một vài
câu “lấy liền” cho dòng thơ tháng 4 không?
Trần Trung Đạo: Cách đây trên mười năm câu thơ
đó được xem là tích cực vì ngược lại quan điểm “chiến thắng này thuộc về nhân
dân Việt Nam anh hùng” và “kẻ đại bại là đế quốc Mỹ xâm lược” của đảng CSVN.
Trong số hàng ngàn nhà văn, nhà thơ sắp thẳng hàng đi theo Đảng, một người
nhích qua bên trái một bước là can đảm lắm rồi. Tuy nhiên, tác giả vẫn viết với
một thái độ bàng quan của một người ngoài cuộc nghĩ đến số phận đáng thương của
“nhân dân” trong “mọi cuộc chiến tranh”. Đừng quên, trong số “nhân dân” đó có
cả mấy chục triệu đồng bào miền Bắc, và đặc biệt các thế hệ thanh niên trong đó
có tác giả, đã bị Đảng dẫn dắt đi như một đàn cừu suốt mấy chục năm.
Bên thắng duy nhất trong
cuộc chiến Việt Nam là giới lãnh đạo đảng CSVN. Sau bao nhiêu mồ hôi và
máu đổ ra, mục tiêu nhuộm đỏ Việt Nam được phát họa từ 1930 cuối cùng đã hoàn
thành. Đối với các đế quốc, Mỹ, Liên Xô, Trung Cộng, trong thời kỳ chiến tranh
lạnh, khái niệm “thắng” hay “thua” với họ chỉ là tương đối. Khi “thua” tại một
nơi họ đang “thắng” tại một nơi khác. Liên Xô tiêu tùng rồi nên chúng ta lấy Mỹ
và Trung Quốc để phân tích. Trong cuộc chiến Việt Nam, sau quá nhiều hao tổn
tiền tài xương máu nhưng khi bắt tay được với Trung Quốc, Việt Nam trở thành
mặt trận thứ yếu. Mỹ bỏ đi và chọn một nước nhược tiểu chiến lược khác để bày
canh bạc mới. Mỹ trả thù Liên Xô bằng cách “tặng cho Liên Xô một Việt Nam” như
Brzezinski nói về cuộc chiến Afghanistan năm 1979. Về phía Trung Quốc, họ vẫn
nghĩ là họ thắng nhưng sau chiến tranh bị Liên Xô phỗng tay trên và trở thành
kẻ thua trận lớn. Trung Quốc phải tốn nhiều xương máu mới thu phục được đàn em
khó trị lần nữa sau 1990.
Quyền lợi của các đế quốc và tham vọng của giới lãnh đạo Cộng Sản
Việt Nam được đong bằng máu của nhiều triệu đồng bào Việt Nam vô tội khắp ba
miền. Tôi không đủ khả năng để viết một bài đừng nói chi hai câu “lấy liền” để
mô tả nỗi đau của dân tộc tôi.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Cứ mỗi 365 ngày, vào thời điểm
này, chúng ta lại có dịp nghe thấy hoặc chứng kiến “người anh em” trong nước
tưng bừng giăng thêm khẩu hiệu, biểu ngữ, và cờ phướn tung bay ngập lối, cùng
pháo hoa kèn trống diễn binh... như một thứ men say chiến thắng, trong khi đó ở
hải ngoại thì những người lữ thứ kỷ niệm ngày 30/4 như một tưởng nhớ đau thương
quốc hận. Như thế liệu tâm hồn bạn lúc này đang bay bổng ở đâu, khi gõ lại từng
đường dây biến cố lịch sử mỏi mòn ấy? Bạn có nhớ tại sao lúc ấy bạn quyết định
ở lại hay ra đi không?
Trần Trung Đạo: Hàng năm Đảng phải tổ chức
“mừng chiến thắng” vì Đảng tồn tại nhờ vào việc đào sâu hố hận thù và phân hóa
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ngày dân tộc Việt Nam đoàn kết trong ngoài
một mối đó cũng là ngày cáo chung của chế độ độc tài. Càng tổ chức lớn bao
nhiều càng chứng tỏ thế yếu của Đảng bấy nhiêu. Sau 37 năm, tôi nghĩ, đồng bào
Việt Nam, đa số tuy chưa có những hành động cụ thể, về ý thức họ đã nhận ra
cuộc chiến Việt Nam là cuộc lừa gạt lớn nhất trong suốt dòng lịch sử. Như tôi
mới viết đây, ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân
một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học hay
một người nào đó đi lạc trong rừng 37 năm vừa mới tìm đường ra, nếu hôm nay,
những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào
ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị
tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng tự dối lòng để tiếp tục sống trong
men rượu cay cho hết một kiếp người lầm lỡ.
Ngày 30-4 đúng là ngày đau thương quốc
hận của dân tộc Việt Nam. Không phải chỉ những người Việt hải ngoại
tổ chức mà tôi tin nhiều triệu người Việt trong nước cũng âm thầm tưởng niệm
ngày quốc hận 30-4 trong lòng họ. Ngay cả sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, ngày
30-4 vẫn nên tiếp tục được tổ chức để nhắc nhở cho các thế hệ Việt Nam những
đau thương, chịu đựng của dân tộc Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản. Các quốc gia thoát khỏi chế độ
Cộng Sản như Ba Lan, Bulgaria, Hungary, Lithuania, Latvia v.v. và cả các quốc
gia không Cộng Sản như Canada, Thụy Điển đã chính thức chọn ngày 23-8 là ngày
Tưởng Nhớ Nạn Nhân Của Chế Độ Cộng Sản và Quốc Xã (International Black Ribbon
Day), Việt Nam sẽ có một ngày tương tự nhưng là ngày 30-4.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Vào những lúc cuối đời, thường
thì trong lòng người ta vẫn dấy lên một chút lương tri đạo đức làm người gì đó,
và những câu nói sau đây của ông Võ Văn Kiệt được xem như là những điển hình
đáng ghi nhận: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng
triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của
dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Là
một người dân Việt, mà lại là một người cầm bút tử tế, bạn nghĩ chúng ta phải
làm thế nào để có thể băng bó vết thương chung của dân tộc, khi hiểm họa của
người phương Bắc càng ngày càng phủ chụp đất nước sau 37 năm Việt Nam vỗ ngực
xưng hoà bình thống nhất?
Trần Trung Đạo: Tôi đã viết một bài góp ý câu nói của ông
Võ Văn Kiệt và bàn về “hòa giải dân tộc”. Nếu ban biên tập Tiền Vệ cho phép,
tôi xin mời độc giả đọc bài “Góp ý với ông
Võ Văn Kiệt về hòa giải dân tộc và khép lại quá khứ” (đã đăng
trên Talawas ngày 19.2.2007)
Nguyễn Thị Thanh Bình: Nếu bảo “thất bại trong hoà
bình” mới là điều đáng lên tiếng luận bàn cho một lộ trình tương lai đất nước
khả quan hơn, thì thử hỏi bạn có dám nói, dám viết, dám kiến nghị để lương tâm
và chức năng của một người cầm bút không bị kiến cắn, kiến bò không? Và cho dẫu
bạn không hề là một trong 75 vạn người mẹ đớn đau của những người con được
phong tước anh hùng liệt sĩ gì đó, hoặc bị xem là “có nợ máu với nhân dân”, thì
liệu bạn có phải bịt tai, bịt mắt để khỏi phải nghe hay thấy những bài ca rỗng
tuếch nhai đi nhai lại ngợi ca xương máu chiến thắng?
Trần Trung Đạo: Tôi cũng viết khá nhiều về các
vấn đề chung quanh “lộ trình tương lai đất nước” nhưng chưa bao giờ viết dưới
hình thức “kiến nghị”. Có nhiều bài viết tưởng như một nhắn gởi cho Đảng nhưng
thật ra viết cho những người Việt Nam còn nặng lòng với đất nước dù họ đang
sinh hoạt trong tổ chức nào và đang sống ở đâu trên trái đất. Tôi cũng luôn kêu
gọi các anh các chị trong giới cầm bút, trong và ngoài nước, viết. Thời buổi
viết theo chỉ thị, theo đơn đặt hàng qua rồi. Các thế hệ sau cần biết sự thật
dù nhiều khi sự thật là viên thuốc đắng mà người viết đã uống một lần trong đời
lại phải uống thêm một lần nữa. “Lộ trình tương lai đất nước” rộng thênh thang,
đủ chỗ cho mọi người có lòng với tương lai dân tộc. Tình yêu dành cho đất nước
không bao giờ quá sớm hay quá muộn màng.
Tôi chia sẻ và cảm thông với những “người mẹ đớn đau” như chị nhắc
đến. Ở quê tôi có một bà mẹ trong số 75 vạn bà mẹ có con đã thành “tử sĩ”. Cụ
Nguyễn Thị Thứ, được phong danh hiệu “Bà Mẹ anh hùng” vì có đến 9 người con
trai là liệt sĩ. Ngôn ngữ Việt Nam dù phong phú bao nhiêu cũng chẳng thể nào tả
được nỗi đau trong lòng cụ khi nửa đêm thức dậy nhìn lên bàn thờ dựng 9 tấm ảnh
của những đứa con trai mà cụ đã từng mang nặng đẻ đau. Tại ai? Tây? Mỹ? Quân
đội miền Nam? Đảng Cộng sản? Hay tại những đứa con (chắc chắn trong đó có một
số người bất hiếu) của cụ? Nhưng dù tại ai thì họ cũng đã chết và chỉ có nỗi
đau là ở lại. Mỗi khi đọc tin về cụ tôi lại nghĩ đến nỗi đau, không phải chỉ vì
cụ có 9 người con chết, mà đau hơn khi mỗi ngày, từ suốt tuổi già cho đến khi qua
đời năm 2010, như một “bà mẹ anh hùng” cụ phải phải tiếp tục gượng cười tươi
trên sự bất hạnh và bạc phước của chính mình.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Ông Lê Duẩn đã từng biện bạch
rằng “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải là của riêng ai”. Vậy
thử hỏi nỗi đau của “triệu người buồn” kia, cũng hệt như nỗi đau của nước sắp
mất, và (ngôi) nhà Việt Nam sắp tan, không lẽ không phải là niềm đau chung của
dân tộc? Đất nước chắc chắn nào phải của riêng ai, vậy tại sao lại chỉ có thứ
độc quyền yêu nước hay bán nước? Sự kiện tiếp tục bỏ tù những trí thức yêu nước
độc lập có phải là thái độ sợ hãi của một nhà cầm quyền chỉ muốn củng cố quyền
lực hay không? Liệu bạn có thấy phấn khởi khi giới trẻ cũng bắt đầu quan tâm và
muốn gánh vác phần nào câu chuyện lịch sử 30/4/1975 của cha ông mình?
Trần Trung Đạo: Theo các tài liệu, ông Trần Văn
Trà với tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định là người đầu tiên
nói câu nói đó với các viên chức chính quyền miền Nam bị bắt tại Dinh Lộc Lập
sau ngày 30-4. Tuy nhiên, dù Trần Văn Trà, Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt hay Phạm Văn
Đồng cũng chẳng khác gì nhau. Họ học cùng một thầy, sử dụng chung một cuốn tự
điển, đọc chung một sách có tựa đề Cẩm Nang Lừa Gạt và cùng hát một bài “hòa
giải hòa hợp dân tộc” giống nhau. Bản chất độc tài chuyên chính sắt máu của chế
độ vẫn không thay đổi và, chẳng những thế, phương tiên cai trị ngày càng được
tăng cường, củng cố, nâng cấp để phù hợp với tiến bộ kỹ thuật.
Một ví dụ nhỏ để chứng minh. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất,
các cuộc đấu tố giới hạn trong việc “vạch mặt” nạn nhân trước các “tòa án nhân
dân” trong làng xã chỉ vài trăm người chứng kiến, ngày nay, những cảnh mẹ tố
con, chị tố em được đưa lên các hệ thống truyền hình cho cả nước được xem, đưa
lên báo cho cả triệu người đọc như trường hợp đấu tố chị Bùi Minh Hằng mới đây.
Một bà mẹ có thể mắng con gái mình trước ống kính truyền hình mà không cảm thấy
đau như lúc mẹ còn đang chuyển bụng, một người chị có thể rủa em ruột mình đang
đói khát tình thương trong chốn lao tù mà không nhớ những ngày còn ngủ một
giường, đắp chung một chiếu, bú chung một bầu sữa. Tuy nhiên, những người đáng
trách không phải mẹ hay chị của chị Bùi Minh Hằng mà là những kẻ làm việc trong
bộ máy thông tin. Đám nịnh hót này vì quá hăng say, quá nhiệt tình với công tác
làm nhục chị Bùi Minh Hằng, đã gây áp lực tinh thần để một bà cụ 86 tuổi nói
những câu mà có thể bây giờ cụ đang hối hận. Nền “giáo dục xã hội chủ nghĩa”
chuyên đào tạo ra những con người vô cảm trước nỗi khổ đau của người khác. Phương pháp dùng cha mẹ, vợ con, anh em để rình rập nhau, tố cáo nhau
là phương pháp Cộng Sản có truyền thống từ thời Stalin vẫn còn áp dụng phổ biến
tại Việt Nam. Giả thiết, mẹ và chị của chị Bùi Minh Hằng thay vì tố
cáo, đã binh vực việc thể hiện lòng yêu nước của một người dân trước cảnh nước
mất nhà tan là chính đáng, liệu đài truyền hình có phát hình buổi phỏng vấn đó
không và các báo đảng có đăng những câu trả lời của họ không?
Sự kiện tiếp tục bỏ tù những trí thức yêu nước độc lập có phải là
một thái độ sợ hãi? Đương nhiên. Đảng đang lo sợ, bởi vì chưa bao giờ trong
suốt 80 năm lịch sử, Đảng ở vào thế bị động và bị cô lập hơn bây giờ. Trong
chiến tranh chống thực dân, Đảng có nhiều lý do để vận động quần chúng, trong
chiến tranh Việt Nam Đảng có nhiều phương tiện để bưng tai bịt mắt nhân dân,
nhưng trong cuộc tranh chiến tranh chống tham nhũng, nghèo nàn, lạc hậu hiện
nay thì không. Quyền lợi của Đảng và quyền lợi của dân tộc về căn bản vốn mâu
thuẫn và ngày nay mức độ mâu thuẫn đã dẫn đến điểm đối kháng như chúng ta thấy
qua các biến cố Tiên Lãng và Ecopark mới đây.
Tôi luôn tin tưởng vào tuổi trẻ. Lịch sử dân tộc đã, đang và sẽ
được viết bằng tuổi trẻ. Cách suy nghĩ và hành động của họ có thể sẽ không
giống như các phương cách mà các thế hệ cha chú đã dùng bởi vì lịch sử mang
tính kế tục nhưng đồng thời cũng mang tính thời đại. Mỗi thế hệ phải hoàn thành
những trách nhiệm mà lịch sử giao phó cho thời đại của họ nhưng dù không hoàn
thành, ngọn đuốc lịch sử vẫn phải được chuyển sang bàn tay thế hệ khác. Đã qua
rồi thời đại của anh hùng cá nhân, minh quân, minh chủ. Chúng ta đang sống
trong thời đại xã hội hóa toàn cầu, ở đó, mỗi cá nhân là một tập hợp thu hẹp
chứa đựng các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp và phụ thuộc vào nhau. Các phong
trào quần chúng đứng lên vì những mục đích cụ thể và thực dụng của đời sống con
người. Dân chủ gắn liền với quyền lợi của người dân. Khái niệm dân chủ đối với
đại đa số quần chúng không phải là những lý thuyết hàn lâm nhưng có thể sờ mó,
cầm trong tay được và thậm chí ăn được. Một trong những biểu ngữ thu hút nhất
được dùng trong các cuộc biểu tình tại Ai Cập năm ngoái chỉ vẽ một ổ bánh mì.
Tôi có một niềm tin sâu xa vào tương lai tươi sáng của dân tộc
Việt Nam. Giá trị của một con người không phải được thẩm định khi người đó bị
xô ngã nhưng ở chỗ biết đứng lên và đi tới. Dân tộc Việt Nam cũng thế, đã bị xô
ngã trong ngày 30-4-1975 nhưng đang đứng lên và đi tới.
-------------
Đã đăng:
05.05.2012
Nhã
Thuyên: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Nhã
Thuyên / Nguyễn
Thị Thanh Bình
04.05.2012
03.05.2012
Hoàng
Chính: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Hoàng
Chính / Nguyễn
Thị Thanh Bình
03.05.2012
02.05.2012
GS
Nguyễn Ngọc Bích: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Nguyễn
Ngọc Bích / Nguyễn
Thị Thanh Bình
02.05.2012
01.05.2012
30.04.2012
Bắc
Phong: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Bắc
Phong / Nguyễn
Thị Thanh Bình
30.04.2012
Uyên
Thao: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Uyên
Thao / Nguyễn
Thị Thanh Bình
29.04.2012
Liêu
Thái: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Liêu
Thái / Nguyễn
Thị Thanh Bình
28.04.2012
Nguyễn
Viện: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Nguyễn
Viện / Nguyễn
Thị Thanh Bình
28.04.2012
Cảm
tưởng về ngày 30/4 (tiểu luận / nhận định) - Nguyễn
Thị Thanh Bình
.
.
.
No comments:
Post a Comment