Philippines đơn độc giữa ASEAN trong cuộc đối đầu với Trung Quốc
Dương Danh Huy (Manila Times)
Lê Vinh Trương dịch từ Manila Times
Bài
đã được xuất bản.: 15/05/2012 02:00 GMT+7
Trong cuộc đối đầu với Trung Quốc tại bãi cạn
Scarborough, Ngọai trưởng Philippines, Albert del Rosario đã phát biểu với tờ
Inquirer rằng “Tất cả các nước khác chứ không chỉ có
Philippines sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu chúng ta không có một lập trường…
mọi người nên nhìn kỹ TQ đang cố gắng làm gì tại bãi cạn Scarborough nhằm theo
đuổi cái mà họ gọi là quyền chủ quyền của họ trên toàn bộ Biển Đông
[Philippines gọi là Biển Tây Philippines] dựa trên yêu sách đường chín vạch,
với một dẫn chứng lịch sử rõ ràng là vô căn cứ“.
Phản ứng, hay ít ra là phản ứng công khai,từ các quốc gia
ASEAN xung quanh Biển Đông về lời kêu gọi của Manila về Biển Đông là yếu ớt.
Gần như không có phản ứng nào được tường thuật trên báo chí, và không có phản
ứng nào được công bố trên các trang web tiếng Anh của các bộ ngoại giao các
nước ASEAN.
Ngoại lệ duy nhất là một tuyên bố bằng tiếng Việt do
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam vào ngày 25/4/2012, đăng tải trên trang
web bằng tiếng Việt của Bộ Ngoại giao Việt Nam, nêu rằng Việt Nam “hết sức quan
tâm và lo ngại về tình hình tranh chấp bãi cạn Scarborough” và Việt Nam “cho
rằng các các bên liên quan cần kiềm chế, giải quyết hòa bình các tranh chấp
trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì
hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông và khu vực.”
Có lẽ có thể hiểu tuyên bố đó như một ủng hộ ngấm ngầm
cho đề nghị của Philippines về giải pháp pháp lý dựa trên UNCLOS, nhưng giả sử
đúng là như thế đi nữa thì sự ủng hộ đó cũng là khá khiêm tốn. Nếu tính toàn bộ
ASEAN thì mức ủng hộ công khai cho Philippines trong cuộc đối đầu ở bãi cạn
Scaborough là đáng thất vọng, dù rằng các nước ASEAN kia không có tranh chấp
với Philippines trong khu vực đó.
Đáng tiếc là là sự thiếu tương trợ đó có vẻ như đã là một
cung cách bất thành văn của các nước ASEAN trong tranh chấp Biển Đông. Ngược
dòng thời gian trong khoảng một năm vừa qua, chúng ta có thể thấy khi TQ giam
cầm các ngư dân VN đánh cá tại vùng Hoàng Sa, không có nước ASEAN nào lên tiếng
để ủng hộ một cách giải quyết công bằng. Khi TQ gây sức ép lên các hoạt động
dầu khí của Philippines trong khu vực bãi Cỏ Rong, không hề có nước ASEAN nào
lên tiếng ủng hộ Philippines. Khi TQ gây áp lực lên tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC
Videsh nhằm khiến họ rút khỏi Lô 127 và 128, nằm giáp bờ biển đất liền Việt
Nam, không có nước ASEAN nào lên tiếng ủng hộ Việt Nam. Khi tàu hải giám và các
tàu đánh cá của TQ phá hoại thiết bị địa chấn của các tàu khảo sát Việt Nam,
không có nước ASEAN nào lên tiếng ủng hộ Việt Nam. Khi tàu TQ dọa đâm vào tàu
khảo sát cho Philippines tại bãi Cỏ Rong tháng 3/2011, không có nước ASEAN nào
lên tiếng ủng hộ Philippines.
Rõ ràng, bất kể các sai lầm mà các nước ASEAN trong tranh
chấp đã mắc phải trong quá khứ và trong hiện tại, kể từ đây, các bên cần thay
đổi cách tiếp cận không lên tiếng này.
Trong thay đổi này, Philippines và Việt Nam nắm chìa khóa
quan trọng. Vì vị trí địa lý của hai quốc gia này so với đường chữ U tai tiếng
của TQ, không gian biển của hai nước này bị đe dọa vào bậc nhất so với các nước
ASEAN khác. Ngoài ra, bản chất của các mối đe dọa mà hai nước này gánh chịu
cũng tương tự nhau. Nếu Việt Nam và Philippines mà còn không thể cùng lên tiếng
một cách rõ ràng thì khó có thể mong đợi các nước khác trong ASEAN có tranh
chấp Biển Đông cùng lên tiếng như thế, và nếu mong đợi cả cộng đồng ASEAN làm
thì còn khó hơn. Hiện nay, nếu ASEAN có thể tìm ra một tiếng nói chung về vấn
đề Biển Đông thì e rằng tiếng nói ấy sẽ chỉ có thể là loãng, yếu và không rõ
ràng.
Đã đến lúc các chuyên gia và các nhà hoạch định chính
sách Việt và Phi cần bàn thảo về một tuyên bố chung nhằm hỗ trợ nhau. Ví dụ,
hai quốc gia này có thể ra thông cáo chung chống lại việc sử dụng đá hay đảo
nhỏ để đòi quá nhiều không gian biển, chống lại lập luận đòi “quyền lịch sử”
trên hầu hết diện tích Biển Đông, và ủng hộ việc xác định rõ ràng phạm vi của
khu vực tranh chấp. Nếu phương án đàm phán bị bế tắc thì Philippines và Việt
Nam có thể kêu gọi các bên khác trong tranh chấp cùng đồng ý đưa các câu hỏi
phù hợp ra cho Tòa án Quốc tế về Luật Biển phân xử.
Đi xa hơn, Philippines và Việt Nam có thể đàm phán với
nhau để xác định phạm vi của các vùng nước phụ thuộc Trường Sa và sau đó lên
tiếng ủng hộ nhau một khi TQ cố gắng gia tăng áp lực lên hai nước này bên ngoài
các phạm vi ấy.
Thí dụ, Philippines có thể đề nghị với Việt Nam rằng các
vùng nước trong khu vực bãi Cỏ Rong phía ngoài vành đai 12 hải lý tính từ các đảo,
đá, nếu có, trong khu vực đó là không thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Trường
Sa, và Việt Nam có thể có một đề nghị tương tự cho bãi Tư Chính.
Trên thực tế, bãi Cỏ Rong và bãi Tư Chính là những bãi
ngầm và theo luật quốc tế thì không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền đối với
toàn bộ hai bãi này, mà chỉ có thể tuyên bố chủ quyền đối với những đảo, đá nổi
từ chúng lên trên mặt nước, nếu có. Phần dưới mặt nước của bãi Cỏ Rong và bãi
Tư Chính sẽ thuộc về hay lãnh hải 12 hải lý, hay vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý, hay thềm lục địa của những đảo,đá này, nếu có, hay của các vùng lãnh thổ
chung quanh. Trong các loại vùng biển này, một nước chỉ có chủ quyền đối với
lãnh hải 12 hải lý, nhưng thông tin đại chúng thường ghi lầm rằng một nước có
chủ quyền đối với cả vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa.
Như vậy, nếu Việt Nam có tuyên bố chủ quyền đối với đảo,
đá nào cao hơn mặt nước trong khu vực bãi Cỏ Rong, thì Việt Nam vẫn tiếp tục
khẳng định chủ quyền đối với những đảo, đá đó và lãnh hải 12 hải lý của chúng.
Luận điểm ở đây là Việt Nam và Philippines nên đàm phán với nhau để xác định
vùng đặc quyền kinh tế của chúng và của những đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa
vươn ra đến đâu ở bãi Cỏ Rong và bãi Tư Chính nói riêng và trên Biển Đông nói
chung. Việt Nam và Philippines có thể tận dụng quy định của Tòa án Quốc tế về
Luật Biển và cùng thi hành thủ tục để hai nước có thể xin Ý kiến Tư vấn của
Tòa, nhằm giúp hai nước xác định phạm vi của vùng đặc quyền kinh tế thuộc
Trường Sa, cũng như nhằm bác bỏ những lập luận của Trung Quốc.
Sau khi thoả thuận về phạm vi của vùng đặc quyền khinh tế
thuộc Trường Sa, Việt Nam và Philippines sẽ cùng nhau lên án những động thái
của Trung Quốc nhằm biến những vùng bên ngoài phạm vi đó thành vùng tranh chấp.
Nếu như Philippines và Việt Nam có thể cùng lên tiếng một cách dứt khoát rằng
một sự kiện đối đầu cụ thể nào đó trên Biển Đông là do TQ mưu toan mở rộng vùng
tranh chấp một cách không phù hợp với luật quốc tế quy định thì việc đó sẽ tạo
ra một thế trận mới cho cuộc đấu tranh ngoại giao và việc tranh thủ dư luận
quốc tế, so với chỉ có một nước tranh cãi với một nước.
Như một thí dụ cụ thể, khi phía Trung Quốc cắt cáp địa
chấn tàu Bình Minh 2 và Viking 2, Việt Nam đã khẳng định rằng hành vi xâm phạm
đó đã xảy ra trong những vùng không phải là vùng tranh chấp. Nếu lúc đó có nước
khác tuyên bố ủng hộ quan điểm của Việt Nam, thì điều đó sẽ có nhiều giá trị
cho việc tranh thủ dư luận của chúng ta.
Như một thí dụ khác, khi Trung Quốc gây sức ép nhằm khiến
tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh rút khỏi Lô 127 và 128, nếu có nước khác
tuyên bố rằng Lô 127 và 128 không nằm trong vòng tranh chấp, thì điều đó cũng
sẽ có nhiều giá trị cho cuộc đấu tranh của chúng ta.
Nếu các nước ASEAN trong tranh chấp tiếp tục cách tiếp
cận “lặng im khi TQ lất lướt kẻ khác” thì không khó đoán cách đó có thể dẫn đến
đâu. Martin Niemoeller, một mục sư người Đức đã miêu tả hạn chế của cách tiếp
cận đó một cách hùng biện:
“Đầu tiên chúng nó (bọn Phát Xít) tìm đến xử những người
Cộng Sản, nhưng tôi không phải Cộng sản nên tôi không lên tiếng. Kế đó chúng
tìm đến xử những người theo tư tưởng Xã hội và Nghiệp đoàn lao động, nhưng tôi
cũng không thuộc họ, nên tôi không lên tiếng. Sau đó chúng tìm đến xử người Do
Thái, nhưng tôi không phải Do Thái nên tôi không lên tiếng. Và khi bọn Phát xít
tìm đến bắt tôi, thì lúc ấy không còn ai để lên tiếng bênh vực cho tôi.”
Những nhà hoạch định chính sách của Philippines và Việt
Nam sẽ hiệu quả hơn cho đất nước của họ nếu họ có thể để ý hơn đến phương diện
này và tận dụng việc Philippines và Việt Nam có thể hỗ trợ ngoại giao cho nhau
để bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng nước Biển Đông mà không ảnh hưởng đến
quan điểm của mỗi nước về chủ quyền trên các đảo, đá Trường Sa.
Lê Vinh Trương dịch từ Manila Times
No comments:
Post a Comment