Lưu Nguyễn Đạt: Những suy nghĩ về ngày 30/4
(phỏng vấn)
10.05.2012
Bài
phỏng vấn dưới đây do nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Bình thực hiện. Một bản câu hỏi
đã được gửi đến nhiều văn nghệ sĩ trong và ngoài nước. Tiền Vệ sẽ lần lượt đăng
tải loạt bài này.
Tiền Vệ
_______
LƯU
NGUYỄN ĐẠT: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Tôi cố tình dành một khoảng trống cho tên
gọi ngày 30-4. Xin bạn thử tìm một tên gọi khác cho ngày này, ngoài những chữ
vẫn được gọi kêu thông thường như ngày Quốc Hận, Tháng Tư Đen, ngày Giải Phóng
hay ngày Đại Thắng Mùa Xuân...? Và tại sao bạn lại muốn gọi như thế?
Lưu Nguyễn Đạt: Tôi mượn lời của
nhà biên khảo Nguyễn Vĩnh-Tráng[1] khi
ông đảo ngược “30 tháng Tư” để tưởng niệm ngày “30 thứ Tang”. Đó là thời điểm
khởi đầu của những giai đoạn tang chế, đau buồn, tang thương di căn:
-
của toàn thể quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà, bị dồn vào thế thất thủ, hàng
binh; bị tù đày, hành hạ, ám hại; bị tước đoạt danh dự, nhân cách và đời sống
ngay từ ngày 30 tháng Tư 1975;
-
của triệu, triệu người dân Miền Nam vô tội, những nạn nhân tập thể mất nhà mất
cửa, mất làng mất xóm; bị đày đoạ, xua đuổi; bị tước đoạt lẽ sống ngay từ ngày
30 tháng Tư 1975;
-
của triệu, triệu con dân trẻ từ Bắc chí Nam, thuộc thế hệ hậu sinh, bất đắc dĩ
trở thành nạn nhân của chính sách kỳ thị mù quáng, giáo điều, ngu dân của CSVN
mỗi lúc mỗi toàn trị từ ngày 30 tháng Tư 1975;
-
của vô số cựu cán bộ, quân nhân, trí thức CSVN và các tổ chức ngoại vi, trá
hình, lần lượt bị thất sủng, ngược đãi, lừa đảo bởi chính cấp lãnh đạo tham
quyền cố vị, tham nhũng, bất tài thừa thắng xông lên từ ngày 30 tháng Tư trên;
-
của biết bao thế hệ Việt Nam, dấn thân hay vô cảm, đang lâm nạn vô tổ quốc ngay
trên quê hương mình, khi bạo quyền CSVN, ác với dân, hèn với địch, sẵn sàng
nhượng hải đảo, tháo ranh giới, bán rừng, bán nước, mỗi lúc mỗi rõ rệt, mỗi lúc
mỗi công khai ngay sau khi tiếm quyền khuynh đảo trên toàn quốc.
Đối
với vô số nạn nhân trực tiếp, gián tiếp hay bất đắc dĩ của ngần ấy tang tóc
khốn đốn, ngần ấy tang thương bất nhân, quá đáng, thì ngày 30 tháng Tư không
hơn không kém phải được gọi là “Ngày Quốc Nạn”, nếu không muốn gọi là “Ngày
Quốc Hận”.
Còn
đối với những phần tử đã lầm lẫn mắc bẫy phủ dụ man trá của CSVN trước đây,
biến cố 30 tháng Tư năm 1975 là ngã rẽ, là khởi điểm của chuỗi “Ngày Ân Hận”
khi đối mặt với sự thật để vỡ lẽ thấy mình đã bị lường gạt,[2] đã
từng bị xúi giục nhúng tay vào chàm, nhúng tay vào máu và tội ác một cách vô
ích, phí phạm, bất công.[3]
Dân
tộc Việt, trong và ngoài nước, nên tiếp tục tưởng niệm Ngày 30 tháng Tư này để
ghi nhớ vết thương lịch sử trọng thể và sẵn sàng cảnh tỉnh trước mọi tai ương
nhân tạo tương tự.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Nhà thơ Nguyễn Duy ở Việt Nam, với bài
thơ “Nhìn từ xa... Tổ quốc” mà nhiều người vẫn tâm đắc, đã có lần viết câu thơ
sau đây trong bài “Đá ơi”: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng
thì nhân dân đều bại”. Không biết bạn đồng cảm như thế nào với thi sĩ về hai
câu này, cũng như liệu bạn có thể cảm tác thêm một vài câu “lấy liền” cho dòng
thơ tháng 4 không?
Lưu Nguyễn Đạt: Tôi cũng có những
bài thơ tưởng niệm biến cố Ngày Quốc Nạn 30 tháng Tư.
PARIS KHĂN TRẮNG
thân
tặng Sinh viên Paris & Bruxelles
để
tang trong lòng Mẹ Việt Nam xa vắng
30
avril 1975
paris khăn trắng
tang mẹ tang mình
tay nắm cờ vàng
buông nợ vĩnh linh
chân đạp đường vơi
đá mọc giữa lòng
khói chiều lay gió
hồn vắng ẩn chôn
đi xi lang thang
tiếng đọng hạt mềm
theo mưa vời vợi lột
xác mộng đêm
thấm vào hương cỏ
thấm mãi chu kỳ
môi cay se mặn nước
đắng viễn vi
sài gòn chim di áo
lụa rách mòn
mỏng mảnh lá non đất
già nắng ngọn
bụi trưa nồng cháy
hàng sĩ nung say
giọt lệ ban ngày vết
thương vọng ngây
hà nội đâu đây son
phấn vôi khè
một ngàn năm lẻ
phượng đỏ hồ tê
tình xưa không trọn
thành cũ đổi nghề
bán rong tình nghĩa
sớm tối nô nê
MẸ NÍN
cùng
Dân tộc Việt Nam
từ
30 tháng Tư Năm 1975
sáng nay mẹ nín để
con đi
cửa ngõ đóng sơ vội
biệt ly
ngoảnh mặt giơ tay
hàng vũ khí
ngoài khơi ngũ hải
khóc chu kỳ
sáng qua mẹ nín để
con đau
tù ải quanh năm gối
nhục màu
cải tạo tay lồng
chân xích hậu
hồ mơ tát nước lấp
kinh cầu
sáng hôm mẹ nín để
con điên
công lý bẻ cong chữ
tật nguyền
nước mất bờ vây
thành hý viện
đó đây lời lẽ vẫn
huyên thuyên
tối nay mẹ nín để
con ca
bài hát vẫn còn nỗi
thiết tha
giọt đắng tâm hồn
ngây vắng lạ
nghe như muốn khóc
ngập sơn hà
Lưu Nguyễn Đạt
Vết
thương lịch sử này phải do chính người dân can đảm và đồng tâm đứng lên hàn gắn
một cách cụ thể, khi quyết liệt giành lấy quyền tự chủ bồi hoàn quá khứ, không
cho phép “Quốc Nạn” trên tái diễn ngày nay và trong tương lai.
Đã
tới lúc người dân phải ý thức quyền hành và trách nhiệm của chính mình. Giới
công bộc, “đầy tớ của dân” có thi hành đúng đắn nhiệm vụ giao phó hay không
cũng là do ý chí định đoạt, chọn lựa đối tác; do khả năng yêu sách, tự vệ và tự
bảo tồn của người dân. Tiếm quyền hay lạm quyền của giới thống trị phần nào nẩy
nở do sự khiếm khuyết trách nhiệm, sự chểnh mảng, ươn hèn và “thú đau thương”
của một dân tộc sẵn sàng đầu hàng trước bất công tai quái, dưới chiêu bài định
mệnh vùi lấp, thí bỏ. Như trong một cuộc tự sát tập thể dửng dưng, hay một đám
tang câm nín, không nước mắt: cam phận, lì lợm, vô cảm.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Cứ mỗi 365 ngày, vào thời điểm này, chúng
ta lại có dịp nghe thấy hoặc chứng kiến “người anh em” trong nước tưng bừng
giăng thêm khẩu hiệu, biểu ngữ, và cờ phướn tung bay ngập lối, cùng pháo hoa
kèn trống diễn binh... như một thứ men say chiến thắng, trong khi đó ở hải
ngoại thì những người lữ thứ kỷ niệm ngày 30/4 như một tưởng nhớ đau thương
quốc hận. Như thế liệu tâm hồn bạn lúc này đang bay bổng ở đâu, khi gõ lại từng
đường dây biến cố lịch sử mỏi mòn ấy? Bạn có nhớ tại sao lúc ấy bạn quyết định
ở lại hay ra đi không?
Lưu Nguyễn Đạt: Lịch sử Việt Nam
chỉ nên khách quan coi Ngày 30 tháng Tư 1975 là một Ngày-Quốc-Nạn chung, có thể
tránh được nếu những phe lâm chiến thực sự nghĩ tới quyền lợi, danh dự, và sự
trường tồn của Dân Tộc Việt, xứng đáng với trào lưu tiến bộ chân chính của nhân
loại.
Người
ở lại hay người ra đi phải chuyền lực kết tạo tương lai cho Dân Tộc Việt, bằng
cách xoá bỏ sai lầm từ mọi phía và tự tay hàn gắn vận mệnh cho chính mình, xây
dựng căn Nhà Việt Nam sạch sẽ, rộng lượng, nhân bản hơn.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Vào những lúc cuối đời, thường thì trong
lòng người ta vẫn dấy lên một chút lương tri đạo đức làm người gì đó, và những
câu nói sau đây của ông Võ Văn Kiệt được xem như là những điển hình đáng ghi
nhận: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người
vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần
được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Là một người dân
Việt, mà lại là một người cầm bút tử tế, bạn nghĩ chúng ta phải làm thế nào để
có thể băng bó vết thương chung của dân tộc, khi hiểm họa của người phương Bắc
càng ngày càng phủ chụp đất nước sau 37 năm Việt Nam vỗ ngực xưng hoà bình
thống nhất?
Lưu Nguyễn Đạt: Nếu người dân còn
tiếp tục mặc cảm tự ti, còn phủ nhận trách nhiệm, thì Ngày Quốc Nạn hay Quốc
Hận còn di căn vài thế hệ nữa, trong khi cuộc vui “chiến thắng” giả định liên
hệ mỗi lúc mỗi nhạt nhẽo, tuồng hề hay xảo trá, lừa lọc.
Xin
nhắc lại: Vết thương lịch sử này phải do chính người dân can đảm và đồng tâm
đứng lên hàn gắn một cách cụ thể, khi quyết liệt giành lấy quyền tự chủ bồi
hoàn qua khứ, không cho phép “Quốc Nạn” đó tái diễn ngày nay và trong tương
lai.
Đã
tới lúc mọi người dân nên ý thức quyền hành và trách nhiệm của chính mình. Đã
tới lúc bất cứ ai cũng nên đảm nhận “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”
ở một khía cạnh dấn thân và đối tác nào đó. Ai cũng có khả năng nơi chính mình,
tự phát, tự duy, tự kiểm. Ai cũng có trách nhiệm liên hệ, chu đáo.
Cái
hoạ mất cá tính dân tộc, mất nước, mất nòi bắt nguồn từ chính người dân cho
phép nhà cầm quyền và các thế lực ngoại vi trở thành nội thù ngang ngược, tham
nhũng, bất trị và cùng lúc làm ngơ cho ngoại bang trở thành thù dịch hoang
tưởng, tiếm quyền, ngoan cố, láo xược.
Hay
đứng lên dẹp bỏ mặc cảm bất lực. Hãy đứng lên dẹp bỏ nhà cầm quyền vốn nội thù
vong bản. Hãy sát cánh thị uy với ngoại thù tham lam; hãy vững tâm bảo vệ đất
nước, lãnh thổ, lãnh hải và thực thi quyền làm công dân trong một thế giới công
bình, pháp trị, nhân từ.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Nếu bảo “thất bại trong hoà bình” mới là
điều đáng lên tiếng luận bàn cho một lộ trình tương lai đất nước khả quan hơn,
thì thử hỏi bạn có dám nói, dám viết, dám kiến nghị để lương tâm và chức năng
của một người cầm bút không bị kiến cắn, kiến bò không? Và cho dẫu bạn không hề
là một trong 75 vạn người mẹ đớn đau của những người con được phong tước anh
hùng liệt sĩ gì đó, hoặc bị xem là “có nợ máu với nhân dân”, thì liệu bạn có
phải bịt tai, bịt mắt để khỏi phải nghe hay thấy những bài ca rỗng tuếch nhai
đi nhai lại ngợi ca xương máu chiến thắng?
Lưu Nguyễn Đạt: Đã tới lúc cần gạt
bỏ mọi mặc cảm tự ti lẫn tự tôn, nếu những điều đó là sai lạc, trá hình, vô
tích sự, tự hủy.
Tự
tin, tự trọng và tôn trọng đại nghĩa, đại sự liên hệ tới cuộc sống chân chính,
toàn diện của mọi công dân trong nước và trên thế giới loài người mới là điều
đáng bàn, đang cãi, đáng bênh vực và thực hiện.
Còn
không chỉ là sáo ngữ, tà thuật gian dối cần loại trừ.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Ông Lê Duẩn đã từng biện bạch rằng “Đây
là thắng lợi của cả dân tộc, không phải là của riêng ai”. Vậy thử hỏi nỗi đau
của “triệu người buồn” kia, cũng hệt như nỗi đau của nước sắp mất, và (ngôi)
nhà Việt Nam sắp tan, không lẽ không phải là niềm đau chung của dân tộc? Đất
nước chắc chắn nào phải của riêng ai, vậy tại sao lại chỉ có thứ độc quyền yêu
nước hay bán nước? Sự kiện tiếp tục bỏ tù những trí thức yêu nước độc lập có
phải là thái độ sợ hãi của một nhà cầm quyền chỉ muốn củng cố quyền lực hay
không? Liệu bạn có thấy phấn khởi khi giới trẻ cũng bắt đầu quan tâm và muốn
gánh vác phần nào câu chuyện lịch sử 30/4/1975 của cha ông mình?
Lưu Nguyễn Đạt: Quốc tang, quốc nạn
mất nhà mất cửa, mất tự do, danh dự, mất quyền sống làm người, mất quê hương xứ
sở thực sự không dành riêng cho ai, cho bất cứ thành phần nào về mặt xã hội,
tuổi tác, chí hướng tư tưởng, tôn giáo, mà đã thẩm thấu tới toàn dân, toàn tộc
người Việt chúng ta, bất kỳ lúc nào, giai thoại nào, khi CSVN còn duy tri tai
ách thống trị trên quê hương và vận mệnh người dân thất thế. Còn cái “thắng
lợi” chỉ dành riêng cho thiểu số chóp bu đảng phiệt CSVN, cho mafia quốc doanh
và đại gia tư bản đỏ.
Vậy
mất hay còn, vui hay buồn, hãnh diện hay tủi nhục phải là chuyện chung, của cả
dân tộc còn lại, lớn bé, già trẻ, nam nữ, với mọi tín ngưỡng, tư tưởng, sắc
dân.
Chúng
ta có thể ngày nào đó tha thứ, bỏ qua, nhưng không bao giờ quên nổi tai ương
quốc nạn của biến cố 30 tháng Tư 1975 và của những chính sách bạo tàn liên hệ.
Nó là tang chứng bể dâu đem con người “đổi đời” sát gần với loài thú dữ, bất
nhân, bất nghĩa, rồi cũng sẽ tự hại, tự hủy. Nó là cơ hội hiện hình của một
thực thể man rợ nhằm chấp hữu tài sản và tước đoạt nhân phẩm của bất cứ ai, với
mục đích duy nhất là để thu thập và tăng trưởng quyền lợi vô hạn cho đảng phiệt
CSVN.
Nhưng
nó cũng là điều thôi thúc, là tiếng gọi của lý tưởng, lương tri và đạo đức, của
công lý và triển vọng khôi phục con người chân chính, toàn diện, biết dấn thân
xây dựng lại cõi sống tử tế, tiến bộ, trưởng thành trong không gian Việt, nếu
không muốn chứng kiến cảnh diệt vong, xoá bỏ một dân tộc, một lãnh thổ trước
đây từng khải tiến.
[1]
Nhà biên khảo Nguyễn Vĩnh-Tráng, tiến sĩ toán học, hiện cư ngụ tại Pháp: “Cùng các Anh,
các Chị, Tưởng niệm Ngày “30 thứ Tang” (30 tháng Tư). An lành, VT.”
[2]
Mời đọc ”Tôi
khóc ngày 30 tháng Tư 75 vì thấy nền văn minh đã thua chế độ man rợ”, Dương Thu Hương, www.vietthuc.org, May 3, 2011:
Việt
Tide: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong
đoàn quân của bà trầm trộ trước sự phát triển vật chất của miền Nam thì bà ngồi
khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó?
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ
thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. Lần thứ nhất khi
đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội
quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi
đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền
Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một
chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy
trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như
TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc
mơ. Ông Thái đừng quên rằng, ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà
nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán
bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung
Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là
chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế
độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở
miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ . . .nếu người
ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh
đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt
giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…
Ngày
30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngã rẽ trong đời tôi. Đúng ra, ngã rẽ này đã bắt
đầu từ năm 1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh người miền Nam ở
Quảng Bình. Lúc đó tôi làm công tác ở các binh trạm và những tù binh lần đầu
tiên tôi gặp không phải là người Mỹ mà chính là người Việt Nam, cũng đầu đen
mắt đen, cũng lùn và da vàng mũi tẹt như tôi, và nói tiếng Việt Nam như tôi.
Cho nên tôi mới hồ nghi rằng tất cả những điều người ta nói đây là cuộc chiến
tranh chống quân xâm lược thì đó là láo toét. Tuy nhiên vì lúc đó là chiến
tranh và tất cả đều lao vào một guồng máy và bị cỗ xe khổng lồ nó cuốn đi. Cho
đến năm 75, với thời gian (giọng ngậm ngùi, xúc động), tất cả mọi ngờ vực trong
tôi đã chín muồi. Năm 75, tôi hiểu rằng đây là thời điểm quyết định và là ngã
rẽ dứt khoát trong tư tưởng của mình.
[3]
Mời đọc “Làm
cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài”, Phạm Hồng Sơn,www.vietthuc.org, May 5, 2012:
Phạm Hồng Sơn: Dịp 30 tháng 4
hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các
ông ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có
cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có
cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá
buồn. Cái chiến thắng 30 tháng 4 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện
cho nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô tình
hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và
người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói
là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân
tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc
tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn
bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô
tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là
vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự
do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại,
con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết
lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
-------------
Đã đăng:
09.05.2012
Đinh Từ Bích Thúy: Những suy nghĩ về ngày 30/4
(phỏng vấn) - Ðinh Từ Bích Thúy / Nguyễn Thị Thanh Bình
08.05.2012
07.05.2012
06.05.2012
05.05.2012
04.05.2012
03.05.2012
03.05.2012
02.05.2012
GS Nguyễn
Ngọc Bích: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Nguyễn
Ngọc Bích
/ Nguyễn
Thị Thanh Bình
02.05.2012
01.05.2012
30.04.2012
30.04.2012
29.04.2012
28.04.2012
28.04.2012
.
No comments:
Post a Comment