(từ Sài Gòn, Việt
Nam)
17.11.2016
Cuộc
bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016 đã khép lại với chiến thắng đảo lộn của
Donald Trump, nhưng lại mở ra một trang sử mới đầy khó khăn hơn hẳn trong quan
hệ Mỹ - Việt. Sau nhiều năm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thỏa nguyện về yêu
cầu “quan hệ với cả kênh đảng” khi họ không còn được chơi với một Đảng Dân chủ
Mỹ bị xem là mềm mỏng thái quá đối với vấn đề nhân quyền Việt Nam, mà sẽ phải
“đối tác toàn diện” với một Đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát cả hai viện trong
Quốc hội Mỹ.
Về
truyền thống, Cộng hòa là đảng có tiếng cứng rắn không chỉ với những hoạt động
đối ngoại “bảo vệ lợi ích Mỹ ngoài biên giới Mỹ”, mà về cả nhân quyền. Trong
hai nhiệm kỳ của Tổng thống Barack Obama từ năm 2008 đến năm 2016, không phải
giới nghị sĩ Đảng Dân chủ mà chủ yếu là những người của Đảng Cộng hòa mới là
nhân tố gây áp lực liên tục về yêu sách nhân quyền đối với các quốc gia còn độc
tôn ý thức hệ và chế độ một đảng như Cuba, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Việt
Nam, kể cả với những quốc gia dù đa đảng nhưng mang màu sắc độc tài như Nga và
Syria. Vào năm 2015, vài chục nhân vật cao cấp của Nga và vài trăm nhân vật cao
cấp của Syria đã bị Mỹ cấm nhập cảnh vào Mỹ và phong tỏa tài khoản ngân hàng ở
nước ngoài là một dẫn chứng xác thực về chủ trương cứng rắn của giới lập pháp
thuộc Đảng Cộng hòa.
Trong
khi đó, một hiện tượng kỳ lạ là vào cuối thời kỳ cầm quyền của Đảng Dân chủ ở
Hoa Kỳ, “quan hệ với cả kênh đảng” lại trở thành một nhu cầu tối thiết thân của
giới quan chức Đảng Cộng sản Việt Nam, được khởi nguồn từ chuyến đi lặng lẽ đến
Washington vào tháng 7/2014 của Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư thành Ủy Hà Nội
Phạm Quang Nghị - nhân vật đã đặt dấu mốc chẳng mấy ấn tượng khi tiếp xúc với Đảng
Cộng sản Mỹ và hai Đảng Dân chủ và Cộng hòa.
Một
năm sau đó, “quan hệ kênh đảng” đã trở nên chính thức không cần tuyên bố qua cuộc
đón tiếp tại Phòng Bầu Dục của Tổng thống Obama dành cho Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng. Đến lúc này - và hiểu theo cách nào đó - Tổng
Bí thư Trọng đã trở thành “nguyên thủ quốc gia”, cho dù ở Việt Nam khi ấy vẫn
còn Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và một thủ tướng chưa biết sẽ “ở” hay “về” là
ông Nguyễn Tấn Dũng.
Ngay
trước khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra vào tháng 11/2016, “quan hệ với cả
kênh đảng” một lần nữa được nhắc lại bởi chuyến công du Washington của ông Đinh
Thế Huynh - người được đồn đoán sẽ trở thành “truyền nhân” của Tổng Bí thư Trọng.
Trong chuyến đi này, ông Huynh đã hành xử gần khớp với trường hợp ông Phạm
Quang Nghị trước đó, nghĩa là tìm cách tiếp xúc với cả hai Đảng Dân chủ và Cộng
hòa theo tỷ lệ dàn đều - một tỷ lệ truyền thống mà giới lãnh đạo Việt Nam rất
sính dùng trong phương pháp đu dây tay ba Việt - Trung - Mỹ.
Tuy
thế, có một thứ “điềm” gì đó không mấy suôn sẻ đã ứng vào chuyến công du của
ông Đinh Thế Huynh: một trong vài nội dung then chốt mà ông Huynh muốn Mỹ tái
xác nhận như thể “sẽ cho Việt Nam vào TPP” đã chịu cảnh thất vọng ghê gớm ngay
sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Tương lai TPP gần như sụp đổ sau gần một chục
năm ròng rã đàm phán. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong chuyến đi
Mỹ của ông Huynh cũng bởi thế đã tan thành mây khói.
An
ủi còn lại với ông Đinh Thế Huynh cùng những người bên đảng ở Việt Nam chỉ còn
là họ đã được chính phủ của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ xác nhận mối quan hệ chính thức
một cách không cần tuyên bố.
Thế
nhưng nỗi thất vọng thầm kín thứ hai, sau cú sốc TPP, là Đảng Dân chủ đã bị rơi
vào cảnh thoái trào có vẻ đột ngột sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, để từ đầu năm
2017 Đảng Cộng hòa mới là ông chủ thực sự của cả Thượng viện lẫn Hạ viện Hoa Kỳ.
Đảng
Cộng sản Việt Nam sẽ phải khởi động lại “quan hệ kênh đảng”?
Vẫn
còn quá sớm để dự đoán, và vẫn chưa có gì chắc chắn để chính phủ mới của tổng
thống “không biết đâu mà lường” - Trump - cùng các nhân vật cốt cán của Đảng Cộng
hòa có chịu “quan hệ với cả kênh đảng” với Việt Nam, hay là không.
Làm
lại từ đầu!
Một
khả năng gần như rõ ràng sẽ diễn ra là cùng với vai trò gia tăng mạnh mẽ của Đảng
Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ, vai trò của những nghị sĩ Mỹ quan tâm đặc biệt đến
chủ đề đối ngoại và nhân quyền cũng sẽ nổi lên và có thể sẽ nổi bật. Một trong
những mối quan tâm ấy đã được thể hiện bởi ảnh hưởng của Vietnam Caucus, còn gọi
là “Nhóm làm việc về Việt Nam” của Hạ viện Hoa Kỳ, bao gồm những nghị sĩ có tên
tuổi và quen thuộc như Loretta Sanchez, Zoe Lofgren, Chris Smith, Frank Wolf,
Alan Lowenthal, Ed Royce…, cùng vài chục nghị sĩ khác của cả hai đảng trong Quốc
hội Mỹ.
Trong
nhiều năm qua, đã nhiều lần Nhóm Vietnam Caucus không giấu giếm mối quan tâm và
hành động cụ thể đối với việc cải thiện nhân quyền tại Việt Nam như tự do tôn
giáo, tự do báo chí, xã hội dân sự, thả tù nhân lương tâm. Nhưng đáng ngại hơn
cả đối với giới lãnh đạo Việt Nam có lẽ là những dự luật liên quan đến nhân quyền
mà các nhà lập pháp của Vietnam Caucus đã soạn thảo và vẫn tiếp tục thúc đẩy Quốc
hội Mỹ thông qua: Dự luật nhân quyền Việt Nam, Dự luật chế tài nhân quyền Việt
Nam, và gần đây nhất là một văn bản yêu cầu đưa Việt Nam trở lại Danh sách các
quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC List).
Nếu
vai trò của Vietnam Caucus gia tăng đáng kể trong trào lưu “chiếm Quốc hội” của
Đảng Cộng hòa Mỹ, hẳn nhiên những dự luật trên có khả năng được thông qua. Đặc
biệt, nếu Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam được thông qua, sẽ tương tự tình
trạng chế tài nhân quyền đối với Nga và Syria khi hàng loạt nhân vật cao cấp và
kể cả trung cấp của giới lãnh đạo Việt Nam bị đưa tên vào “sổ đen nhân quyền” của
Mỹ và Liên minh châu Âu, để từ đó những người này sẽ không được nhập cảnh vào Mỹ,
cùng lúc tài khoản, tài sản của họ, kể cả của người thân của họ, sẽ bị Mỹ và
Liên minh châu Âu phong tỏa tại bất kỳ ngân hàng hoặc địa điểm quốc tế nào mà
nước Mỹ có thể với tay tới.
Nếu
bị đưa trở lại Danh sách CPC, đó sẽ là cú chìm lịch sử của chính thể Việt Nam
sau 10 năm. Có thể hiểu ra sao nếu 10 năm trước, Tổng thống Bush của Đảng Cộng
hòa đã đưa Việt Nam ra khỏi CPC, thì nay cũng có thể là một tổng thống khác của
Đảng Cộng hòa sẽ đặt lại Việt Nam vào vị trí cũ? Để khi đó, tất cả những hiệp định
thương mại song phương (FTA) mà Việt Nam ký với nhiều nước, đặc biệt với những
nước là đồng minh kinh tế và quân sự của Mỹ, sẽ mang số phận thế nào?
Có
lẽ cho đến giờ này, một số trong giới lãnh đạo Việt Nam mới nhận ra rằng họ đã
bỏ phí thời gian và thời cơ để giành được nhiều thứ hơn trong cuộc chơi với Đảng
Dân chủ của Obama. Họ đã hoài phí đến 8 năm trời để trả treo từng chút về nhân
quyền, để thực thi chính sách “đổi nhân quyền lấy kinh tế”, nhưng lại kém thành
tâm đến mức chính những người bị coi là cởi mở lẫn nhẹ dạ thái quá như Obama
cũng bị khựng lại. Cuối cùng, mọi cơ hội đã vuột trôi.
Khác
rất nhiều với thời “hoàng kim” năm 2008, chính thể Việt Nam giờ đây đang phải đối
phó với đủ thứ: một đất nước với tài nguyên cạn kiện, một nền kinh tế hoang tàn
kề miệng hố, phản kháng xã hội của dân chúng chỉ chờ bùng nổ, nội bộ đảng chưa
bao giờ gần với “nguy cơ tồn vong” như thế, và “đồng chí tốt” Bắc Kinh có thể
ra tay thôn tính Việt Nam bất cứ lúc nào.
Còn
Việt - Mỹ? Giờ đây, tất cả có thể phải làm lại từ đầu!
------------------------
*
Blog của nhà báo Phạm Chí Dũng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được
đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường
của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment