Thái Văn Cầu
Cập nhật lần cuối 12/01/2016
Trong chuyến thăm cấp nhà nước của lãnh đạo Trung Quốc
đến Mỹ vào cuối tháng 9 năm 2015, tại cuộc họp báo chung với Barack Obama ở
khuôn viên Toà Nhà trắng, Tập Cận Bình tuyên bố các đảo (thuộc hai quần đảo
Hoàng Sa - Trường Sa) là lãnh thổ của Trung Quốc từ ngàn xưa. Sau khi khẳng định
Mỹ sẽ tiếp tục những hoạt động trên Biển Đông, như luật pháp quốc tế cho phép,
Tổng thống Obama khuyến khích các bên tranh chấp tìm kiếm giải pháp 1.
Bài sau đây, trong loạt bài nghiên cứu Biển Đông của
người viết, trước hết, trình bày phản biện cho một số lập luận, ý kiến hiện thời,
liên hệ tới chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế, kế đến, bàn về yếu tố ảnh
hưởng quá trình hành xử chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa của Pháp trong nửa đầu
thế kỷ XX, và phương án khả thi cho tranh chấp biển, đảo giữa Việt Nam và Trung
Quốc 2.
1. Đảo
Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, và chủ quyền quốc gia
Đảo Phú Lâm, thuộc nhóm đảo An Vĩnh, nằm ở phía Đông
Bắc quần đảo Hoàng Sa, có tên quốc tế là Woody Island. Nó còn được biết với tên
Ile Boisée dưới thời Pháp thuộc. Bộ đại từ điển do nhà địa dư học Hà Lan
Jacobus Van Wijk Roelandszoon biên soạn, xuất bản năm 1821, là tư liệu phương
Tây ghi rõ đảo Phú Lâm là của Việt Nam 3.
Khoảng đầu thập niên 1920, chính quyền Pháp ở Đông
Dương thường xuyên cho tàu tuần hành khu vực Hoàng Sa, từng khám xét tàu Nhật chuyên
chở phốt phát, khai thác từ đảo Phú Lâm. Tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông
Dương tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa. Từ giữa đến cuối thập niên 1920,
nhiều đoàn khảo sát người Pháp thực hiện nghiên cứu khoa học ở Hoàng Sa - Trường
Sa, bao gồm đảo Phú Lâm.
Tháng 9 năm 1930, chính quyền Pháp chính thức thông
báo chủ quyền Trường Sa đến các siêu cường. Tháng 2 năm 1932 : Bộ Ngoại
giao Pháp yêu cầu Bộ Quốc phòng Pháp chiếm hữu đảo ở Trường Sa. Tháng 3 năm
1932 : Bộ Quốc phòng thông báo cho Bộ Ngoại giao kế hoạch chiếm hữu đảo tại
khu vực không nguy hiểm, có thể tạm thời trú đóng. Do tình hình thời tiết, kế
hoạch không xảy ra trước tháng 4 năm 1933, Kế hoạch bao gồm cả bản thảo cho
tuyên bố sử dụng khi chiếm hữu đảo. Monique Chemillier-Gendreau, chuyên gia
Pháp về luật pháp quốc tế, nhận định thông báo này có mục đích chính thức chiếm
hữu toàn bộ quần đảo Trường Sa 4.
Tháng 4 năm 1933 : Bộ Quốc phòng hoàn thành kế hoạch
chiếm hữu 6 đảo ở Trường Sa. Tháng 7 năm 1933 : Sự chính thức chiếm hữu đăng
trên Công báo (Journal officiel) Pháp. Anh công nhận chủ quyền của Pháp dù tàu
Anh đã đến Trường Sa năm 1877. Tháng 8 năm 1940 : Bộ Ngoại giao nêu lên sự
thông báo chủ quyền Trường Sa đến các nước, sự chính thức chiếm hữu ở Trường Sa
đăng trên Công báo, sự sáp nhập Trường Sa vào đơn vị hành chính ở Trung phần Việt
Nam, sự công nhận của Anh, và cho biết Nhật là nước duy nhất phản đối hành xử
chủ quyền của Pháp 5.
Trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai,
Pháp tiếp tục quản lý đảo Phú Lâm nói riêng và Hoàng Sa nói chung, cho đến khi
bị quân đội Nhật ngăn chặn vào tháng 3 năm 1945. Pháp không có quân trú đóng ở
Trường Sa nhưng khi hải quân Nhật gia tăng hoạt động tại Trường Sa, Pháp phản đối.
Một lần nữa, Anh công nhận chủ quyền của Pháp. Để đánh dấu sự hiện diện, chính
quyền Pháp đưa lực lượng dân vệ người Việt đến Trường Sa, trú đóng cạnh dân vệ
của Nhật 6.
Hội nghị quốc tế ở Cairo năm 1943 và Potsdam năm
1945 quyết định Nhật phải hoàn trả các vùng đất của Trung Hoa, bị Nhật chiếm
đóng trong chiến tranh, cụ thể là Formosa, Pescadores, Manchuria. Dù tham dự cả
hai hội nghị, Tưởng Giới Thạch không đòi chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa. Cuối
năm 1946, quân đội Tưởng Giới Thạch bất ngờ đổ bộ lên Hoàng Sa - Trường Sa. Khi
phát hiện sự hiện diện của quân Tưởng ở đảo Phú Lâm, Pháp phản đối. Chính quyền
Tưởng bác bỏ đề nghị của Pháp đưa tranh chấp ra quốc tế giải quyết. Đầu năm
1950, sau khi nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa (CHNDTH) thành lập, quân Tưởng
rút khỏi đảo Phú Lâm. Trong khi quân đội Pháp ở Đông Dương duy trì sự hiện diện
ở đảo Hoàng Sa (tên quốc tế là Pattle Island), Pháp không gửi quân đến đảo Phú
Lâm 7.
Tháng 10 năm 1950, lễ bàn giao quyền kiểm soát Hoàng
Sa giữa Pháp và Việt Nam xảy ra. Tổng trấn Trung phần Việt Nam Phan Văn Giáo chủ
trì lễ bàn giao. Không có lễ bàn giao quyền kiểm soát Trường Sa giữa Pháp và Việt
Nam vì không có chứng cứ quân đội Pháp hiện diện ở Trường Sa vào thời điểm đấy. 8
Yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa ở nửa đầu thế kỷ
XX :
1.
Nhật Bản :
Là cường quốc châu Á, Nhật theo đuổi chủ trương bành
trướng từ thập niên 1890, gây chiến tranh với Trung Hoa năm 1894, với Nga năm
1905, chiếm đóng Formosa, Pescadores, đảo Sakhalin. Trong thập niên 1920, phe
quân sự Nhật, có tinh thần cực đoan, thắng thế. Nhật dùng vũ lực chiếm đóng
Manchuria năm 1931, xâm lược miền Đông Trung Hoa năm 1937-1938, tham gia Chiến
tranh thế giới thứ hai cuối năm 1940. Nhật tuyên bố đầu hàng khối đồng minh
tháng 8 năm 1945 sau khi bị Mỹ ném hai quả bom nguyên tử 9.
2.
Chiến tranh Đông Dương :
Vào đầu thập niên 1950, cuộc chiến tranh chống Pháp ở
Việt Nam đi vào thời kỳ mới. Pháp cần Mỹ giúp đỡ sau khi có sự thiết lập quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Trung Quốc, Liên Xô và các nước
Đông Âu, sự gia tăng nguồn viện trợ từ khối cộng sản, sự lớn mạnh trong phong trào
chống chiến tranh Đông Dương ở Pháp, sự thất bại quân sự của Pháp trong Chiến dịch
Biên giới, v.v. Vào tháng 5 năm 1950, lần đầu tiên Mỹ gửi 23,3 triệu dollars viện
trợ cho Pháp. Đến năm 1954, Mỹ hỗ trợ khoảng 75 % ngân sách chiến tranh
Đông Dương của Pháp 10.
Từ đầu thập niên 1920, đối diện với tham vọng bành
trướng của Nhật ở châu Á, Pháp hành xử chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa để ngăn
chặn bước tiến của Nhật. Từ cuối thập niên 1940 đến giữa thập niên 1950, do mối
đe dọa của Nhật không còn, do mức độ khốc liệt trong chiến tranh Đông Dương gia
tăng, do thiếu hụt ngân sách, Pháp giảm thiểu quan tâm về chủ quyền Hoàng Sa -
Trường Sa.
Tháng 9 năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam (QGVN) Trần Văn Hữu tuyên bố
Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Việt Nam. Các nước tham dự hội nghị không phản đối
tuyên bố của Việt Nam. QGVN, cùng 47 nước khác, bao gồm Mỹ, Pháp, Anh, Nhật,
v.v. ký Hiệp ước Hoà bình. Theo Hiệp ước, Nhật từ bỏ mọi quyền và yêu sách chủ
quyền của Nhật ở Hoàng Sa - Trường Sa 11.
Tháng 7 năm 1954, Hội nghị Geneva kết thúc, chính thức
công nhận nền độc lập của Việt Nam. Việt Nam chia đôi. QGVN (sau là Việt Nam Cộng
hoà) được quyền quản lý Hoàng Sa-Trường Sa. Nỗ lực củng cố quyền hành của chính
quyền Ngô Đình Diệm và mở rộng vai trò của Mỹ đưa đến áp lực khiến quân đội
Pháp phải rời khỏi Việt Nam cuối tháng 4 năm 1956, trước thời hạn quy định
trong Hiệp ước Geneva 12.
Dù Mỹ cho Pháp biết quan tâm của họ về vị thế chiến
lược của Hoàng Sa, chính quyền Pháp không có phản ứng thích hợp. Nắm lấy thời
cơ, tháng 12 năm 1955, Trung Quốc bắt đầu gửi quân xâm nhập đảo Phú Lâm. Cuối
tháng 2 năm 1956, tàu tuần tra Pháp đi gần đảo Phú Lâm, phát hiện quân Trung Quốc
đang xây dựng công sự, thiết lập sự chiếm đóng bất hợp pháp 13.
Trước đòi hỏi chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa của
Trung Quốc, vào đầu tháng 6 năm 1956, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao QGVN lên tiếng khẳng
định Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam, như thông báo ở Hội nghị San
Francisco năm 1951. Cho đến thời điểm bị quân đội Trung Quốc chiếm đóng vào nửa
đầu năm 1956, Việt Nam hành xử chủ quyền ở đảo Phú Lâm nói riêng và ở Hoàng Sa
- Trường Sa nói chung, theo đúng Định ước Berlin năm 1885 và luật pháp quốc tế.
Không ngừng ở khu vực đảo Phú Lâm, lần lượt vào
tháng 1 năm 1974 và tháng 3 năm 1988, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng
phần đảo còn lại của Hoàng Sa và 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa, khiến 74 chiến sĩ
Quân đội Việt Nam Cộng hòa và 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh 14.
2.
Chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế
Trong hơn 10 năm nay, có những lập luận, ý kiến được
đưa ra khi nói về nỗ lực bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa - Trường Sa.
Sau đây là phản biện của người viết cho một số luận điểm, trên góc độ luật pháp
quốc tế.
2.1
Qua phản đối hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam và qua khẳng định Hoàng Sa -
Trường Sa là của Việt Nam, Việt Nam đã và đang bảo vệ chủ quyền ở hai quần đảo
này.
Theo Nguyễn Quốc Định, chuyên gia Pháp gốc Việt về
luật pháp quốc tế, phản đối ngoại giao và khẳng định chủ quyền trước hành động
xâm phạm của nước khác là điều không thể thiếu. Nuno Sergio Marques Antunes,
chuyên gia Bồ Đào Nha về tranh chấp hàng hải quốc tế, cũng nhấn mạnh vai trò của
phương thức này trong nghiên cứu của ông 15.
Tuy nhiên, phản đối ngoại giao, khẳng định chủ quyền
sẽ không có giá trị nếu nó không được nối tiếp với các phương thức khác, như
tích cực giải quyết tranh chấp qua đàm phán hoà bình, hay qua sử dụng hệ thống
toà án quốc tế.
Trong hai vụ kiện, giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa
Nicaragua và Honduras năm 2007, Toà án Quốc tế (ICJ) phán xét rằng, do xem khẳng
định chủ quyền, phản đối ngoại giao của Pháp, Nicaragua là không đầy đủ, ICJ
đưa quyết định thuận lợi cho Anh, Honduras 16.
Trong tranh chấp quần đảo Falklands giữa Argentina
và Anh, phản đối ngoại giao, khẳng định chủ quyền của Argentina không bảo vệ được
chủ quyền quần đảo Falklands khi Argentina không tiến hành kiện Anh ra ICJ 17.
2.2
Do tính chất phức tạp của nó, tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc
nên được gác lại cho các thế hệ sau tìm phương thức giải quyết.
Có ý kiến cho rằng giải quyết tranh chấp Hoàng Sa -
Trường Sa là vấn đề lâu dài, kéo đến đời con, đời cháu, hay ngay cả hàng trăm
năm.
Trước hết, như đã đề cập ở trên, phản đối ngoại
giao, khẳng định chủ quyền có giới hạn thời gian của nó. Kế đến, trong giải quyết
tranh chấp giữa hai nước, khi cần thiết, ICJ sử dụng nguyên tắc “quieta non
movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn định”. ICJ có thể đưa quyết định thuận lợi
cho nước đang chiếm giữ một vùng đất, vùng biển, mặc dù chủ quyền ban đầu không
thiết lập rõ ràng, nhưng có hành xử thích hợp sau đấy.
Trong hai vụ kiện, giữa Norway và Sweden năm 1909,
giữa Qatar và Bahrain năm 2001, nguyên tắc này là một trong những yếu tố khiến
Sweden, Bahrain nhận được quyết định thuận lợi 18.
Theo M. Taylor Fravel, chuyên gia Mỹ về quan hệ quốc
tế, từ khi CHNDTH thành lập năm 1949 cho đến nay, trong tổng số 23 cuộc tranh
chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, Trung Quốc
giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán 17 lần và sử dụng vũ lực 6 lần. Trong
đó, 3 lần sử dụng vũ lực là với Việt Nam : Tại Hoàng Sa năm 1974, khu vực biên
giới cực Bắc năm 1979, và Trường Sa năm 1988. Ba lần còn lại là với Đài Loan, Ấn
Độ và Liên Xô 19.
Hiến chương Liên hiệp quốc có Chương I, Điều 2, Khoản
4, ngăn cấm thành viên của tổ chức Liên hiệp quốc đe doạ hay sử dụng vũ lực chống
toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của thành viên khác. Hiến chương Liên
hiệp quốc cũng có Chương VII, Điều 51, đề cập đến quyền tự vệ cá nhân hay quyền
tự vệ tập thể khi thành viên bị tấn công vũ trang 20.
Trong hơn 30 năm nay, học giả Trung Quốc và học giả
phương Tây, như Wu Shicun, Marwyn Samuels, Greg Austin, v.v., trực tiếp hay
gián tiếp, bóp méo hay làm lu mờ sự thật, khi đưa lập luận Trung Quốc thực hiện
“quyền tự vệ” hay bảo vệ “toàn vẹn lãnh thổ” trong xung đột biển đảo với Việt
Nam21.
Dù chưa có nghiên cứu khoa học, nghiêm túc, về
nguyên tắc “quieta non movere” và sự sử dụng vũ lực trong chiếm đóng, các quyết
định của Toà án Quốc tế, dựa trên cơ sở thời gian và tình trạng ổn định, và sự
kiện Trung Quốc tích cực tạo hoả mù trong chứng cứ lịch sử và trong hành động
chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa - Trường Sa, cho thấy sự bất lợi cho Việt
Nam, sự thuận lợi cho Trung Quốc gia tăng, khi Việt Nam gác lại giải quyết
tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, để cho các thế hệ sau tìm giải pháp 22.
2.3
Để giảm thiểu căng thẳng trong tranh chấp quần đảo Trường Sa với Philippines và
Malaysia, Việt Nam nên công khai từ bỏ đòi hỏi chủ quyền tất cả đảo, đá nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines và Malaysia.
Khái niệm EEZ trong Công ước Liên hiệp quốc về Luật
biển (UNCLOS), được công nhận năm 1982, và có hiệu lực từ năm 1994, là về
"quyền chủ quyền" của nước tiếp cận biển, không phải về công nhận chủ
quyền của đảo, đá nằm trong EEZ của một nước.
Đảo, đá #123 nằm trong EEZ của nước A có thể thuộc
chủ quyền của nước B hay thuộc tranh chấp chủ quyền giữa hai nước B và C. Nếu
chứng cứ chủ quyền của A yếu hơn B và C, và nếu B đơn phương từ bỏ đòi hỏi chủ
quyền đảo, đá #123, trong khi C tiếp tục đòi hỏi, khi có phán xét, ICJ sẽ trao
chủ quyền đảo, đá #123 cho C, không phải cho A.
Việt Nam hành xử chủ quyền ở Trường Sa trước
Philippines và Malaysia. Do Trung Quốc cũng đòi chủ quyền Trường Sa, tranh chấp
xảy ra. Từ hành xử chủ quyền trên 6 đảo, đá ở quần đảo Trường Sa đầu thập niên
1930, Việt Nam hiện hành xử chủ quyền ở 21 đảo, không kể 7 bãi đá ngầm bị Trung
Quốc dùng vũ lực chiếm đóng năm 1988. So với các nước có tranh chấp ở Trường
Sa, Việt Nam có con số đảo, đá lớn nhất 23.
Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines, và với
Malaysia, trong bối cảnh Biển Đông, tiến triển tốt đẹp trong nhiều năm qua. Việt
Nam và Malaysia nộp báo cáo chung về khu vực giữa EEZ của hai nước cho Ủy ban
Ranh giới Thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf
(CLCS)), theo đúng quy định của UNCLOS, năm 2009; Việt Nam và Philippines hỗ trợ
cho nhau trong tranh chấp với Trung Quốc, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược
giữa hai nước vào tháng 11 năm 2015 24.
Do đó, nếu được thực hiện, luận điểm này có khả năng
gây thiệt hại không chỉ cho Việt Nam mà còn cho Philippines và Malaysia.
2.4
Việt Nam không thể kiện Trung Quốc ra Toà án Quốc tế được vì Trung Quốc không hợp
tác.
Cơ chế quốc tế để giải quyết tranh chấp trên đất liền
hay trên biển giữa các nước là Toà án Quốc tế (ICJ), Toà án Quốc tế về Luật Biển
(ITLOS), Toà án Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên hiệp quốc về Luật
Biển (UNCLOS) và Toà án Trọng tài Đặc biệt theo Phụ lục VIII của UNCLOS.
ICJ hiện hữu từ năm 1946; ba Toà án còn lại hình
thành sau khi UNCLOS có hiệu lực năm 1994. ICJ và ITLOS đòi hỏi mọi bên trong
tranh chấp đồng ý tham gia vào quá trình thưa kiện.
Tuy nhiên, Điều 53 trong Quy chế của ICJ có nói rằng:
1. Bất cứ khi nào một trong các bên không trình diện
trước Tòa án, hoặc không bảo vệ trường hợp của họ, bên kia có thể yêu cầu Tòa
án ra quyết định theo hướng có lợi cho mình.
2. Trước khi thực hiện yêu cầu, Tòa án phải biết,
không những là Toà án có thẩm quyền theo quy định ở các Điều 36 và 37, mà còn
là vụ kiện có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý 25.
Trong gần 70 năm qua, ICJ phán xét hơn 160 vụ kiện;
Điều 53 được ICJ sử dụng 7 lần 26.
Do tính chất quan trọng của vụ kiện và phạm vi giới
hạn của bài, người viết tập trung vào một trong 7 trường hợp: Vụ kiện về “Những
hoạt động quân sự và bán quân sự ở trong và chống Nicaragua” giữa Nicaragua và
Mỹ, bắt đầu từ tháng 4 năm 1984.
Viện dẫn lý do là ICJ có khả năng vượt quá giới hạn
và bị chính trị hoá, Mỹ từ chối tham gia. Dựa trên Điều 53, ICJ tiến hành vụ kiện
và có quyết định thuận lợi cho Nicaragua cuối tháng 6 năm 1986 27.
Trong hơn 20 năm qua, vụ kiện đưa đến những tác động
tích cực, không chỉ cho Nicaragua và Mỹ mà còn cho các nước khác.
Đối
với Nicaragua:
Mặc dù không được Mỹ trực tiếp bồi thường thiệt hại
quy định trong phán xét của ICJ, Nicaragua nhận viện trợ kinh tế và quân sự của
Mỹ, có giá trị hàng trăm triệu dollars, khi quan hệ giữa hai nước cải thiện từ
đầu thập niên 1990 28.
Đối
với Mỹ:
Mỹ nhận thức đuợc mối lo ngại, khi từ chối tham gia
vụ kiện, là ICJ sẽ bị chính trị hoá, không trở thành hiện thực. Dự đoán của Mỹ
không chính xác. Phán xét trong vụ kiện khiến Mỹ phải thực hiện thay đổi trong
chính sách và trong quyết định liên quan đến giải quyết tranh chấp 29.
Đối
với những nước khác:
Trong hai thập niên 1960-1970, phán xét của ICJ
trong các vụ kiện giữa Ethiopia - Nam Phi, Liberia - Nam Phi năm 1966, Namibia
- Nam Phi năm 1971, v.v., khiến những nước đang phát triển ở châu Phi và châu Á
nhận định ICJ chưa đủ mạnh, chưa sẵn sàng để có quyết định đúng đắn, không
thiên vị, về hành động sai trái của một số nước ở phương Tây hay thân phương
Tây.
Phán xét trong vụ kiện giữa Nicaragua - Mỹ cho thấy
ICJ có thể đưa quyết định thuận lợi cho một nước nhỏ, yếu kém, chống một nước lớn,
hùng mạnh hàng đầu thế giới. Kết quả là số nước đưa tranh chấp ra ICJ giải quyết
gia tăng từ sau vụ kiện của Nicaragua 30.
3.
Giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc
3.1
Phương án giải quyết tranh chấp của Philippines
Sau gần 20 năm theo đuổi đàm phán hoà bình để giải
quyết tranh chấp Trường Sa nhưng đối diện với lập trường ngang ngược của Trung
Quốc, vào đầu năm 2013, Philippines khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài
theo Phụ lục VII UNCLOS. Viện dẫn lý do về thẩm quyền của Toà án Trọng tài,
Trung Quốc từ chối tham gia.
Vào cuối tháng 10 năm 2015, Toà án Trọng tài khẳng định
thẩm quyền của Toà án cho 7 trong 15 điểm trong hồ sơ kiện của Philippines và
xem xét những điểm còn lại trong thời gian sau. Phán xét của Toà án đánh dấu thắng
lợi đầu tiên cho Phillipines trong vụ kiện Trung Quốc 31.
3.2
Nỗ lực thúc đẩy đàm phán hoà bình của Việt Nam
Vào cuối tháng 9 năm 1975, trong cuộc họp với lãnh đạo
Trung Quốc, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng
Sa - Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp
và đề nghị hai nước thảo luận sau 32.
Trong hơn ba tháng qua, tuyên bố của Tập Cận Bình về
chủ quyền trên Biển Đông trong các chuyến thăm từ châu Mỹ sang châu Á cho thấy
rất rõ một thực tế là, kể từ cuộc họp giữa lãnh đạo hai nước Việt-Trung năm
1975 cho đến nay, Trung Quốc dứt khoát gạt bỏ mọi thiện chí của Việt Nam để giải
quyết tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa. Trung Quốc chủ trương duy trì một lập
trường nhất quán trong hơn 40 năm : không đàm phán hoà bình với Việt Nam về
Hoàng Sa - Trường Sa 33.
3. 3
Phương án giải quyết tranh chấp của Việt Nam
Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và
chủ quyền quốc gia của Việt Nam khi chiếm đóng bất hợp pháp đảo Phú Lâm năm
1956, sử dụng vũ lực ở Hoàng Sa năm 1974, ở Trường Sa năm 1988, hàng năm ngang
nhiên tuyên bố lệnh cấm đánh cá trên vùng biển của Việt Nam, liên tục gây thiệt
hại tài sản và ngay cả thiệt hại nhân mạng cho ngư dân Việt Nam.
Trong 5 năm qua, Trung Quốc tích cực hoàn thiện hay
xây dựng mới tổ chức hành chính, sân bay quân sự, quân cảng, hải đăng, v.v., ở
Hoàng Sa - Trường Sa, cải tạo và tăng diện tích các bãi đá ngầm chiếm đóng bất
hợp pháp ở Trường Sa thành đảo nhân tạo, ở tốc độ kỷ lục chưa từng có trong lịch
sử 34.
Kể từ
khi Trung Quốc chính thức chiếm đóng đảo Phú Lâm năm 1956 cho đến nay, tranh chấp
Biển Đông hiện ở mức độ khẩn trương cao nhất. So với các nước có tranh chấp
trên Biển Đông, với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa bị
Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp, Việt Nam là nước bị thiệt hại lâu dài nhất,
nặng nề nhất, trong tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
Cuối năm 2011, lần đầu tiên lãnh đạo Việt Nam, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh trước Quốc hội sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực
chiếm đóng Hoàng Sa của Việt Nam,“... năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm
đóng các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974 Trung Quốc tiếp
tục dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự đang quản lý hiện
tại của chính quyền Sài Gòn - chính quyền Việt Nam cộng hòa. Chính quyền Sài
Gòn - chính quyền Việt Nam cộng hòa lúc đó đã lên án hành động xâm chiếm
này và đã đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp.”
Vào tháng 5 năm 2014, trong chuyến thăm Philippines,
Thủ tướng khẳng định, “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính
đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt
Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập,
tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận
đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông
... Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương
án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế.” 35
Vào tháng 11 năm 2015, khi gặp gỡ kiều bào Đức, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang nhắc lại lời dạy của vua Lê Thánh Tông, ““Một
thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết
tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang
phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc
đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di. Ông cha chúng ta như thế,
đến đời chúng ta cũng phải thế”.”
Vào cùng tháng 11 năm 2015, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
cho biết là cử tri cả nước “đề nghị sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý để khởi
kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế” 36.
Sự kết hợp giữa ý chí, quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc
gia của nhân dân Việt Nam, của Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, với thực tế
tình hình Biển Đông, và với các nghiên cứu về luật pháp quốc tế, cho thấy Việt
Nam đang ở ngưỡng cửa của phương án: Kiện Trung Quốc ra hệ thống toà án quốc tế.
Khi sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp
Biển Đông với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề chủ quyền giữa
hai nước, mà còn giúp tạo tin tưởng từ các nước phụ thuộc vào giao thông hàng hải
ngang qua một khu vực với hơn 5.300 tỷ dollars mậu dịch quốc tế hàng năm. Cách
hành xử như trên sẽ chứng minh mạnh mẽ rằng Việt Nam là nước tôn trọng luật
pháp, và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh là cường quốc kinh tế hàng thứ hai và cường
quốc quân sự hàng thứ ba trên toàn cầu, Trung Quốc có quan toà đại diện trong
Toà án Quốc tế và Toà án Quốc tế về Luật Biển. Trung Quốc luôn luôn khẳng định
trước dư luận thế giới là họ có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý hậu thuẫn
cho đòi hỏi chủ quyền đảo, đá trên Biển Đông.
Nếu Trung Quốc muốn chứng minh họ tôn trọng luật
pháp, có trách nhiệm, tương xứng với vị thế của nước họ, nếu Trung Quốc muốn
thuyết phục quốc tế tin tưởng vào chứng cứ chủ quyền của họ, phủ nhận vai trò
mà Toà án Quốc tế hành xử hữu hiệu trong hơn 60 năm nay sẽ là hành động phản
tác dụng nhất của Trung Quốc. Khi Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện, Điều 53
trong Quy chế của Toà án Quốc tế cho phép vụ kiện tiến hành khi có đầy đủ chứng
cứ lịch sử và pháp lý. Quyết định không thuận lợi cho Trung Quốc đưa đến cái
giá phải trả có khả năng vượt khỏi mọi dự đoán của Trung Quốc.
Trong hơn 40 năm qua, do tham vọng bành trướng và lập
trường ngang ngược cố hữu của Trung Quốc, tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và
Trung Quốc không được giải quyết qua đàm phán hoà bình. Trái ngược với
một số lập luận, ý kiến thường được nêu lên, nghiên cứu của người viết, dựa
trên phán xét của Toà án Quốc tế, cho thấy cánh cửa sử dụng biện pháp pháp lý để
bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ hoà bình trong khu vực quan trọng hàng đầu thế
giới, không mở ra cho Việt Nam mãi mãi.
Khi kiện Trung Quốc ra Toà án Quốc tế, thế hệ hôm
nay không những làm theo lời dạy của tiền nhân, đền đáp sự hy sinh to lớn của
bao thế hệ đi trước, mà còn góp phần tạo nên một bước ngoặt trong lịch sử của đất
nước.
Thái
Văn Cầu
Chú
thích
1 Obama, Xi, “Remarks by President Obama and President
Xi of the People's Republic of China in Joint Press Conference”, 2015
https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2015/09/25/remarks-president-obama-and-president-xi-peoples-republic-china-joint
https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2015/09/25/remarks-president-obama-and-president-xi-peoples-republic-china-joint
2 Thái Văn Cầu, “Quyền kế thừa của nhà nước và chủ quyền
Hoàng Sa, Trường Sa”, 2014
http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/hai-chien-hoang-sa/quyen-ke-thua-cua-nha-nuoc-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa-5203.html
http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/hai-chien-hoang-sa/quyen-ke-thua-cua-nha-nuoc-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa-5203.html
Cùng tác giả, “VN chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền ở
Hoàng Sa”, 2014
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/183772/vn-chua-bao-gio-tu-bo-chu-quyen-o-hoang-sa.html
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/183772/vn-chua-bao-gio-tu-bo-chu-quyen-o-hoang-sa.html
“Tự do hàng hải và Chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa”,
2014
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/199292/tu-do-hang-hai-va-chu-quyen-hoang-sa---truong-sa.html
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/199292/tu-do-hang-hai-va-chu-quyen-hoang-sa---truong-sa.html
“Luật pháp Quốc tế và Chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”,
2014
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/luat-phap-quoc-te-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/luat-phap-quoc-te-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa
“Hai Nhà nước Việt Nam và Chủ quyền Hoàng Sa - Trường
Sa”, 2013
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/hai-nha-nuoc-viet-nam-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/hai-nha-nuoc-viet-nam-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa
3 Bộ đại từ điển của nhà địa dư học Hà Lan Jacobus Van
Wijk Roelandszoon gồm 11 cuốn, xuất bản trong hơn 20 năm, 1821-1842. Khi viết về
Paracells (Hoàng Sa) trong phần chữ P, trang 862, có danh sách các đảo, bao gồm
đảo Phú Lâm, tọa độ quần đảo Hoàng Sa, và nói rõ là Hoàng Sa thuộc Việt Nam.
4 Monique Chemillier-Gendreau, “La souveraineté sur les
archipels Paracels et Spratleys”, 1996, tr. 105-106, 244-246.
6 John E. Dreifort, “Myopic Grandeur The Ambivalence of
French Foreign Policy Toward the Far East, 1919-1945”, 1991, tr. 149-152
Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 250
Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 111
James Bowen, “Japan's territorial expansion in East
Asia 1875-1930”, 2010
http://www.pacificwar.org.au/historicalbackground/JapExpansion.html
http://www.pacificwar.org.au/historicalbackground/JapExpansion.html
10 Fredrik Logevall, “Embers of War: The Fall of an Empire and
the Making of America's Vietnam”, 2012, tr. 231
Bruce Palmer, “The 25-Year War: America's Military
Role in Vietnam”, 1984, tr. 6
11 “Conference for the Conclusion and Signature of the Treaty
of Peace with Japan”, (I&II), 1951&1952, tr. I-261-263
Theo Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 45, Trung
Quốc thiết lập sự chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm vào tháng 4 năm 1956,
trong giai đoạn cuối của quân đội Pháp rời khỏi Việt Nam. Xem thêm Fredrik
Logevall, sđd, tr. 650.
Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 119
Hong Thao Nguyen, “Vietnam's Position on the
Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claim”, 2012,
tr. 188
Nguyễn Quốc Định là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia
Việt Nam trong chính quyền Bửu Lộc năm 1954, là chủ tịch và phó chủ tịch của
UNCLOS I (1956) và UNCLOS II (1960)
Epsey Cooke Farrell, “The Socialist Republic of
Vietnam and the Law of the Sea: An Analysis of Vietnamese Behavior within the
Emerging International Oceans Regime”, 1998, tr. 43
Nuno Sergio Marques Antunes, “Estoppel, Acquiescence
and Recognition in Boundary Dispute Settlement”, 2000
General Diplomacy and Consular Relations”, 2014, tr.
322
Toà án Quốc tế, “Minquiers and Ecrehos
(France/United Kingdom)”, 1953
http://www.icj-cij.org/docket/index.php?sum=88&p1=3&p2=3&case=17&p3=5
http://www.icj-cij.org/docket/index.php?sum=88&p1=3&p2=3&case=17&p3=5
Toà án Quốc tế, “Territorial and Maritime Dispute
between Nicaragua and Honduras in the Caribbean Sea (Nicaragua v. Honduras)”,
2007
http://www.icj-cij.org/docket/?p1=3&p2=3&code=nh&case=120&k=14
http://www.icj-cij.org/docket/?p1=3&p2=3&code=nh&case=120&k=14
17 Daniel K. Gibran, “The Falklands War: Britain versus the
Past in the South Atlantic”, 2008, tr. 42-43
18 Toà án Trọng tài Thường trực, “The Grisbadarna Case between
Norway and Sweden Decided October 23, 1909”, 1909, tr. 130-132
http://dspace.hil.unb.ca:8180/bitstream/handle/1882/995/PhaseII_NL_Memorial_AnnexOfAuthorities_Volume1_Tab3.pdf?sequence=3
http://dspace.hil.unb.ca:8180/bitstream/handle/1882/995/PhaseII_NL_Memorial_AnnexOfAuthorities_Volume1_Tab3.pdf?sequence=3
Toà án Quốc tế, “Maritime Delimitation and
Territorial Questions between Qatar and Bahrain (Qatar v. Bahrain)”, 2001, tr.
70-75
http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7027.pdf
http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7027.pdf
19 M. Taylor Fravel, “Strong Borders, Secure Nation:
Cooperation and Conflict in China's Territorial Disputes”, 2008, tr. 46-47
“Hiến chương Liên hiệp quốc”, 1945
http://luatgialong.com.vn/upload/hien-chuong-lien-hop-quoc-nam-1945.pdf
http://luatgialong.com.vn/upload/hien-chuong-lien-hop-quoc-nam-1945.pdf
Greg Austin, “China's Ocean Frontier: International
Law, Military Force and National Development”, 1998, tr. 73-77
Wu Shicun, “Solving Disputes for Regional
Cooperation and Development in the South China Sea: A Chinese Perspective”,
2013, tr. 60
22 Toà án Quốc tế, “Dissenting Opinion of Judge Torres
Bernárdez”, 2001, tr. 267-269
http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7047.pdf
http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7047.pdf
24 “Việt Nam - Philippines lập quan hệ đối tác chiến lược”,
2015
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/viet-nam-philippines-lap-quan-he-doi-tac-chien-luoc-3313738.html
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/viet-nam-philippines-lap-quan-he-doi-tac-chien-luoc-3313738.html
26 Andreas Zimmermann, Karin Oellers-Frahm, Christian
Tomuschat, Christian J. Tams, “The Statute of the International Court of
Justice: A Commentary”, 2006, tr. 1335
27 “Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua
(Nicaragua v. United States of America)”, 1986
http://www.icj-cij.org/docket/?sum=367&p1=3&p2=3&case=70&p3=5
http://www.icj-cij.org/docket/?sum=367&p1=3&p2=3&case=70&p3=5
28 “House OKs $720 Million in Aid to Nicaragua, Panama:
Congress: Senate Democrats are threatening to delay some funds. Bush wants
action by Thursday.”, 1990
http://articles.latimes.com/1990-04-04/news/mn-697_1_senate-democrats
http://articles.latimes.com/1990-04-04/news/mn-697_1_senate-democrats
“U.S. Foreign Assistance to Latin America and the
Caribbean: Recent Trends and FY2013 Appropriations”, 2012
https://www.fas.org/sgp/crs/row/R42582.pdf
https://www.fas.org/sgp/crs/row/R42582.pdf
29 Lori Damrosch, “The Impact of the Nicaragua Case on the
Court and Its Role: Harmful, Helpful, or In Between?”, 2012
31 Truong-Minh Vu & Trang Pham, “Who Will ‘Win’ in the
Philippines’ South China Sea Case Against China?”, 2015
http://thediplomat.com/2015/08/who-will-win-in-the-philippines-south-china-sea-case-against-china/
http://thediplomat.com/2015/08/who-will-win-in-the-philippines-south-china-sea-case-against-china/
Trưởng đoàn luật sư của Philippines trong vụ kiện
Trung Quốc là luật sư Mỹ Paul Reichler. Năm 1986, luật sư Reichler, ở tuổi 38,
là luật sư chính trong vụ kiện về “Những hoạt động quân sự và bán quân sự ở
trong và chống Nicaragua” giữa Nicaragua và Mỹ”. Toà án Quốc tế xử Nicaragua thắng
kiện, như đã nêu trong phần 2.4.
“Dũng sĩ giúp Philippines trong vụ kiện 'đường lưỡi
bò'”
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/dung-si-giup-philippines-trong-vu-kien-duong-luoi-bo-3254868.html
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/dung-si-giup-philippines-trong-vu-kien-duong-luoi-bo-3254868.html
“PH lawyer vs China: 'Giant slayer' who defeated
US”, 2015
http://www.rappler.com/nation/98981-philippines-lawyer-china-paul-reichler-profile
http://www.rappler.com/nation/98981-philippines-lawyer-china-paul-reichler-profile
“Companero Paul, of Harvard Law”, 1988
http://www.nytimes.com/1988/06/11/world/companero-paul-of-harvard-law.html
http://www.nytimes.com/1988/06/11/world/companero-paul-of-harvard-law.html
32 Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, “La Souverainete du Viet Nam sur
les archipels Hoang Sa et Truong Sa”, 1979, tr. 55
33 “Sang Singapore, ông Tập Cận Bình: 'Các đảo ở Biển Đông là
của Trung Quốc từ thời cổ đại'”, 2015
http://thanhnien.vn/the-gioi/sang-singapore-ong-tap-can-binh-cac-dao-o-bien-dong-la-cua-trung-quoc-tu-thoi-co-dai-631112.html
http://thanhnien.vn/the-gioi/sang-singapore-ong-tap-can-binh-cac-dao-o-bien-dong-la-cua-trung-quoc-tu-thoi-co-dai-631112.html
“Xi Again Defends China’s Claim to South China Sea
Islands”, 2015
http://www.nytimes.com/2015/11/08/world/asia/xi-jinping-china-south-china-sea-singapore.html?_r=0
http://www.nytimes.com/2015/11/08/world/asia/xi-jinping-china-south-china-sea-singapore.html?_r=0
34 “Trung Quốc xây dựng trái phép ở Hoàng Sa ra sao?”, 2015
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/trung-quoc-xay-dung-trai-phep-o-hoang-sa-ra-sao/734243.html
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/trung-quoc-xay-dung-trai-phep-o-hoang-sa-ra-sao/734243.html
“Trung Quốc xây gì ở Trường Sa một năm qua”, 2015
http://vnexpress.net/photo/tu-lieu/trung-quoc-xay-gi-o-truong-sa-mot-nam-qua-3258497.html
http://vnexpress.net/photo/tu-lieu/trung-quoc-xay-gi-o-truong-sa-mot-nam-qua-3258497.html
“Tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam tại Hoàng
Sa”, 2015
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/tau-trung-quoc-dam-chim-tau-ca-viet-nam-tai-hoang-sa-20150710153718199.htm
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/tau-trung-quoc-dam-chim-tau-ca-viet-nam-tai-hoang-sa-20150710153718199.htm
“Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá trên Biển
Đông”, 2015
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/trung-quoc-don-phuong-cam-danh-bat-ca-tren-bien-dong-3219356.html
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/trung-quoc-don-phuong-cam-danh-bat-ca-tren-bien-dong-3219356.html
“TQ xây đường băng tại Gạc Ma: Phải kiện ra tòa quốc
tế!”, 2014
http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tinh-hinh-bien-dong-van-de-bien-dong/tq-xay-duong-bang-tai-gac-maphai-kien-ra-toa-quoc-te-3105404/
http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tinh-hinh-bien-dong-van-de-bien-dong/tq-xay-duong-bang-tai-gac-maphai-kien-ra-toa-quoc-te-3105404/
“Không thể có cái gọi là "thành phố Tam Sa”,
2012
http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20120630/khong-the-co-cai-goi-la-thanh-pho-tam-sa/499532.html
http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20120630/khong-the-co-cai-goi-la-thanh-pho-tam-sa/499532.html
“Tàu Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam”, 2005
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Tau-Trung-Quoc-ban-chet-ngu-dan-Viet-Nam/20367005/157/
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Tau-Trung-Quoc-ban-chet-ngu-dan-Viet-Nam/20367005/157/
35 “Toàn văn báo cáo giải trình và trả lời chất vấn trực tiếp
của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng”, 2011
http://thutuong.chinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=15274
http://thutuong.chinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=15274
“Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn các
hãng thông tấn quốc tế”, 2014
http://thutuong.chinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=21025#sthash.1vWeB3jQ.dpuf
http://thutuong.chinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=21025#sthash.1vWeB3jQ.dpuf
36 “Chủ tịch nước xúc động với “tàu biển Đông” của kiều bào Đức”,
2015
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151125/chu-tich-nuoc-xuc-dong-voi-tau-bien-dong-cua-kieu-bao-duc/1009063.html
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151125/chu-tich-nuoc-xuc-dong-voi-tau-bien-dong-cua-kieu-bao-duc/1009063.html
Giới nghiên cứu và nguyên lãnh đạo quân sự cũng có ý
kiến về vấn đề kiện Trung Quốc trong tranh chấp trên Biển Đông, điển hình như:
Trung tuớng Nguyễn Quốc Thước, “TQ xây đường băng tại
Gạc Ma: Phải kiện ra tòa quốc tế!”, 2014
http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tinh-hinh-bien-dong-van-de-bien-dong/tq-xay-duong-bang-tai-gac-maphai-kien-ra-toa-quoc-te-3105404/
http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tinh-hinh-bien-dong-van-de-bien-dong/tq-xay-duong-bang-tai-gac-maphai-kien-ra-toa-quoc-te-3105404/
Đinh Kim Phúc, "Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm: Gặp
nhau thì nói tốt, hết gặp lại cho làm bậy", 2015
http://thanhnien.vn/thoi-su/chuan-do-doc-le-ke-lam-gap-nhau-thi-noi-tot-het-gap-lai-cho-lam-bay-639203.html
http://thanhnien.vn/thoi-su/chuan-do-doc-le-ke-lam-gap-nhau-thi-noi-tot-het-gap-lai-cho-lam-bay-639203.html
Hoàng Việt, “Biển Đông - Từ sự ngụy tạo chủ quyền đến
vai trò của công pháp quốc tế”, 2015
http://motthegioi.vn/chuyen-hang-ngay/bien-dong-tu-su-nguy-tao-chu-quyen-den-vai-tro-cua-cong-phap-quoc-te-260358.html
http://motthegioi.vn/chuyen-hang-ngay/bien-dong-tu-su-nguy-tao-chu-quyen-den-vai-tro-cua-cong-phap-quoc-te-260358.html
Ngô Vĩnh Long, “Việt Nam nên kiện Trung Quốc ra Tòa
án quốc tế”, 2014
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/174731/-viet-nam-nen-kien-trung-quoc-ra-toa-an-quoc-te-.html
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/174731/-viet-nam-nen-kien-trung-quoc-ra-toa-an-quoc-te-.html
Dương Danh Huy, “Việt Nam cần kiện ra tòa quốc tế”,
2014
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/606498/viet-nam-can-kien-ra-toa-quoc-te.html
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/606498/viet-nam-can-kien-ra-toa-quoc-te.html
Thái Văn Cầu, “Hướng đi tới cho tranh chấp HS-TS”,
2011
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2011/12/111201_hoangsa_opinion.shtml
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2011/12/111201_hoangsa_opinion.shtml
No comments:
Post a Comment