Ngọc Quang - GDVN
25/01/16 08:09
(GDVN) - PGS.TS Nguyễn Văn Nhã – nguyên Trưởng
Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội nhận định, lẽ ra Bộ Giáo dục phải hạn chế tỷ lệ
đào tạo đại học từ nhiều năm trước.
Chỉ còn 6 ngày nữa (1/2/2016), Thông tư 32 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, có hiệu lực, trong đó quy định: Quy mô sinh viên chính
quy tối đa của cơ sở giáo dục đại học không quá 8.000 sinh viên đối với các cơ
sở giáo dục đại học thuộc khối ngành VI (khối ngành sức khỏe); không quá 5.000
sinh viên đối với các cơ sở giáo dục đại học thuộc khối ngành II (khối ngành
nghệ thuật); không quá 15.000 sinh viên đối với các cơ sở giáo dục đại học thuộc
khối ngành I, III, IV, V, và VII.
Trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, PGS.TS
Nguyễn Văn Nhã – nguyên Trưởng Ban Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định,
cả nước có khoảng 768.000 sinh viên đang học tập, nghiên cứu khoa học trong các
trường Đại học, Cao đẳng. Nếu chia bình quân thì đạt tỷ lệ 118 sinh viên/10.000
dân. Tỷ lệ này không phải là cao so với các nước trong khu vực.
“Dù vậy, tôi vẫn ủng
hộ phương án của Bộ Giáo dục, bởi vì quy định như vậy là nhằm mục tiêu dừng
tăng trưởng về quy mô để chú trọng tới chất lượng. Chúng ta đều biết những năm
gần đây tỷ lệ cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp tăng lên rất nhanh, chỉ từ quý II
cho tới hết quý IV năm 2015 đã tăng lên 26.000 người.
Vì vậy, nếu các trường
không đổi mới, không thay đổi chương trình đào tạo, phương thức đào tạo thì hậu
quả là sẽ còn hàng nghìn cử nhân nữa không có việc làm. Khi đó thì chính các
trường không nhanh chóng đổi mới sẽ không thể tuyển sinh và đương nhiên không
thể tồn tại”, PGS Nhã chia sẻ.
Trên thực tế, cũng không có nhiều cơ sở đào tạo có
quy mô đào tạo chính quy vượt qua ngưỡng này, bởi vì các cơ sở đào tạo rất khó
đạt được cả 3 tiêu chí nêu tại Điều 5 của Thông tư 32, đó là: Số lượng sinh
viên/giảng viên; số lượng sinh viên/diện tích sàn; Quy mô sinh viên tối đa của
cơ sở giá dục đào tạo.
Nguy cơ dư thừa cử nhân (chất lượng kém) đã được một
số chuyên gia giáo dục cảnh báo từ năm 2004. Trong giai đoạn này, ngành giáo dục
đang hướng vào mục tiêu đào tạo 400 SV/10.000 dân dựa trên thông tin là ở nhiều
nước xung quanh Việt Nam và trên thế giới con số đi học Đại học là khoảng
400-450/10.000 dân. Tuy nhiên, tính toán này hoàn toàn sai lầm, bởi ở nhiều quốc
gia tỷ lệ ghi danh học đại học rất cao, nhưng không phải ai cũng học để lấy bằng,
có nhiều người chỉ học một phần kiến thức phục vụ cho công việc.
Sai lầm này là nguồn cơn dẫn tới việc ra đời của
hàng loạt trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn từ 2004 – 2010, tuyển sinh đại
học ồ ạt và lỏng lẻo đầu vào, không kiểm soát chặt chẽ đầu ra, do đó rất nhiều
trường đào tạo theo “hình ống”
Hậu quả là số lượng cử nhân thất nghiệp ngày càng
tăng cao, trở thành gánh nặng của xã hội.
Theo
GS.Nguyễn Minh Thuyết – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội thì sau đó không lâu, Chính phủ
ký Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, trong đó số sinh
viên/10.000 dân chỉ còn 400 (rút 50 sinh viên).
Hai năm sau, Chính phủ ra Quyết định số
37/2013/QĐ-TTg điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường Đại học, Cao đẳng giai
đoạn 2006-2020, trong đó chỉ tiêu số sinh viên/10.000 dân được xác định lại là
khoảng 256, tức là giảm tới 46% so với chỉ tiêu được xác định trước đó 2 năm.
Điều đó cho thấy rõ, chỉ tiêu được xác định ban đầu
là 450 sinh viên/10.000 dân không chính xác, không có căn cứ khoa học.
Hệ lụy là có hàng chục nghìn cử nhân tốt nghiệp đại
học, thậm chí sau đại học, nhưng vẫn thất nghiệp. Thống kê do Viện Khoa học Lao
động và Xã hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) thực hiện cho thấy:
Vào tháng 7/2015 con số này được xác định là 178.000 cử nhân và thạc sĩ thất
nghiệp. Chỉ 6 tháng sau, con số này đã là 225.500 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp
(tăng tới 26,1 nghìn).
Trước thực trạng này, PGS.TS Nguyễn Văn Nhã bình luận:
“Nếu khẳng định Thông tư 32 đã hợp lý hay chưa thì rất khó, vì cần phải có thời
gian để thẩm định. Nhưng theo tôi thì nên hình dung đơn giản là một dây chuyền
sản xuất mà hàng năm cung cấp ra lượng sản phẩm ế thừa đến mức báo động, thì phải
tạm dừng quy mô sản xuất để nâng chất lượng sản phẩm”.
Thay
đổi thói quen ở Việt Nam rất khó
Theo GPS.TS Nguyễn Văn Nhã, con số 225.000 cử nhân (kể cả
tốt nghiệp loại giỏi, 2 bằng đều thất nghiệp) là nỗi đau không chỉ của các nhà
giáo dục mà là nỗi trăn trở của cả xã hội.
“Vẫn biết rằng ở nước
nào thì cũng có một tỷ lệ thất nghiệp nhất định, vì điều đó phụ thuộc vào sức
khỏe của nền kinh tế, nhưng rõ ràng chất lượng đào tạo thay đổi quá chậm theo
nhu cầu thực tế cũng là một nguyên nhân.
Sắp tới đây, thị
trường Asean trở thành ngôi nhà chung, lao động Việt Nam sẽ còn phải đối diện với
nhiều nguy cơ hơn nữa, bởi vì hầu hết chỉ có thể làm những công việc thu nhập
thấp, và chúng ta đang rất thiếu lao động trình độ cao”, PGS Nhã băn khoăn.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Nhã, để hạn chế nguy cơ thất
nghiệp tăng cao, giải pháp chính vẫn là phát triển nền kinh tế - xã hội. Các cơ
sở đào tạo phải gắn quy trình đào tạo với nhu cầu của các doanh nghiệp, phải đồng
hành cùng với các nhà doanh nghiệp để ngay khi còn trên ghế nhà trường, sinh
viên đã có cơ hội trải nghiệm trong các cơ sở sản xuất, được trải nghiệm thực tế
trong các phân xưởng, nhà máy, xí nghiệp, công ty, ngân hàng.
Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần chủ động đến với
các cơ sở đào tạo, góp ý về chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, đặt
hàng, đầu tư theo địa chỉ.
Mặc dù vậy, PGS. Nhã vẫn lo lắng: “Ở Việt Nam mình, thay đổi thói quen bất cứ
điều cũng rất khó. Chẳng mấy ai dám chất nhận cái mới, nhất là khi cái mới lại
làm hạn chế hoặc mất đi cái lợi mà các trường đang được hưởng.
Nhiều người nghĩ rằng
thôi thì cứ duy trì như vậy, thay đổi gì thì đợi thế hệ sau làm tiếp, điều này
xảy ra phổ biến ở các trường thuộc hệ thống công lập.
Các trường tư thục
thì ít nhận được sự hỗ trợ từ nhà nước, thành ra họ cũng chịu nhiều sức ép về
chi phí, cho đến nay một số trường đã làm tốt thì có nền tảng ổn định, nhưng nhiều
trường cứ loay hoay với bài toán tuyển sinh và chưa làm sao thoát ra được.
PGS.TS Nguyễn Văn Nhã cho rằng, để thay đổi được thực
trạng này thì cần thêm ít nhất 10 năm nữa kèm theo một điều kiện các nhà quản
lý giáo dục phải làm rất quyết liệt, phải siết chặt đầu ra để nâng cao được
trình độ của cử nhân.
Đồng thời với những gì đã diễn ra, PGS. Nhã đưa ra lời
khuyên với các cử nhân thất nghiệp: “Thực
tế đã diễn ra cho thấy các bạn đang bị thiếu kỹ năng, cho dù khi học thì các bạn
đều rất chăm chỉ và có điểm số tốt. Thế hệ trẻ ngày nay, nhiều bạn rất sáng tạo,
đột phá, phá cách, có tư duy mới, hướng đi mới nên còn ít tuổi mà các bạn đã rất
thành công.
Vì vậy, tôi mong
các bạn chưa có việc làm không chán nản, hãy kiên trì học hỏi, tận dụng từng cơ
hội để khẳng định mình”.
Ngọc
Quang
Thất nghiệp thì có nhiều kiểu thất nghiệp mà, cứ không có việc làm thì thất nghiệp, có người thậm chí còn chẳng học đại học nhưng mà vẫn có việc làm ngon và kiếm nhiều tiền, thế nên không phải tại vì nền giáo dục đâu, đơn giản bởi vì sinh ra số phận đã có số rồi, chẳng thể nào thay đổi được. Nước nào chẳng vậy. đâu phải chỉ riêng mình nước VIệt Nam
ReplyDelete