Giáp Văn Dương
Viet-Studies 26-1-2016
Trong những năm học tập và làm việc ở nước ngoài, một
trong những điều tôi luôn lưu ý tìm hiểu là: Vì sao họ lại phát triển, còn mình
thì không?
Tôi nhận ra rằng, thoạt nhìn thì câu trả lời có thể
là do thể chế, hoặc do văn hóa, hoặc do những đặc thù về vị trí địa lý. Nhưng
khi suy nghĩ kỹ hơn thì thấy rằng, phía sau tất cả các yếu tố này, bao giờ cũng
thấp thoáng hình bóng của nhà lãnh đạo xuất sắc. Có thể nhà lãnh đạo chính là
người tạo ra các yếu tố này, hoặc chính là người đã khai thác hiệu quả các yếu
tố này, để dẫn dắt sự phát triển của dân tộc họ. Ngay cả khi không có một nhà
lãnh đạo xuất sắc hiện diện ở ngay trong hiện tại, thì thể chế ưu việt và nền
văn hóa tích cực do những nhà lãnh đạo tiền bối của họ kiến tạo ra vẫn đang
đóng vai trò dẫn dắt. Khi đó, chính những nhà lãnh đạo quá cố đó, vẫn đang tiếp
tục lãnh đạo gián tiếp đất nước của họ thông qua các di sản về thể chế và văn
hóa mà họ đã gây dựng.
Như vậy để thấy, lãnh đạo chính là yếu tố mang tính
quyết định đến sự phát triển của một tổ chức, và rộng hơn là của cả một dân tộc.
Đặc biệt là trong các thời khắc khó khăn thì vai trò của nhà lãnh đạo lại càng
lớn, do phải đương đầu với những tình huống chưa từng gặp qua và đòi hỏi phải
ra được những quyết định chính xác mang tính sống còn. Vì thế có thể nói, giới
hạn của nhà lãnh đạo chính là giới hạn phát triển của tổ chức mà người đó lãnh
đạo, và giới hạn phát triển của một dân tộc, cũng bị quy định bởi chính giới hạn
của những người đang lãnh đạo dân tộc đó. Nói cách khác, lãnh đạo là nhân tố
quan trọng nhất quyết định sự phát triển hoặc kìm hãm đất nước. Lựa chọn lãnh đạo
đất nước chính là lựa chọn vận mệnh của cả dân tộc.
Trong một thế giới nhiều biến động, vai trò của nhà
lãnh đạo lại càng nổi bật và trở nên quan trọng. Vì vai trò của nhà lãnh đạo là
để chèo lái quốc gia trong những hoàn cảnh khó khăn hoặc bất định hoặc đòi hỏi
sự bứt phá. Nếu không có khó khăn, không có bất định, hoặc không đòi hỏi sự bứt
phá thì khi đó chỉ cần một nhà quản lý có năng lực để đảm bảo mọi việc diễn ra
theo cách bình thường, chứ không cần đến một nhà lãnh đạo đích thực. Vì nhà quản
lý sẽ tập trung vào việc thực hiện các kế hoạch đã đặt ra, còn nhà lãnh đạo sẽ
thiết kế và hiện thực hóa một tương lai hoàn toàn mới, một sự phát triển mang
tính bứt phá, hoặc một chuyển hướng mang tính chiến lược có ảnh hưởng tốt đẹp
cho nhiều thế hệ kế tiếp.
Vì quan trọng như vậy, nên lãnh
đạo bao giờ cũng là một quan tâm của mọi giới trong xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở mọi nước trên thế giới. Với hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, thì chất lượng
lãnh đạo lại càng quan trọng, khi phần lớn người dân Việt Nam không được trực tiếp lựa chọn lãnh đạo tối cao của mình.
Thực tế phát triển của các quốc gia cho thấy, đất nước
nào lãnh đạo anh minh thì dân tộc đó cất cánh chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có thể chứng nghiệm trong một đời người, mà Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore là những ví dụ nhãn tiền, còn dân tộc
nào có lãnh đạo u mê thì dân tộc đó chìm trong nghèo hèn hàng thế kỷ,không biết khi nào mới ngóc đầu lên được, thậm chí,
ngay sự tồn tại của mình cũng không chắc được đảm bảo.
Từ trong sâu thẳm, nhà lãnh đạo bao giờ cũng mang
trong mình những sứ mệnh lớn hơn bản thân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Đó
có thể là sứ mệnh giải phóng dân tộc, hoặc tạo ra một sự phát triển vượt bậc
cho dân tộc, hoặc giải phóng con người ra khỏi u mê giáo điều. Chính sứ mệnh lớn
lao đó chứ không phải những kiến thức chuyên môn, hoặc bè phái cấu kết, làm lên
tầm vóc của nhà lãnh đạo, và tạo ra sự phát triển cho cả dân tộc mà họ lãnh đạo.
Vậy nên, muốn phát triển, dù là một tổ chức hay một
đất nước, thì điều kiện tiên quyết là tổ chức hoặc đất nước đó phải lựa chọn được
một nhà lãnh đạo tối cao xuất chúng. Đó phải là một nhà lãnh đạo đích thực, chứ
không phải là một nhà cầm quyền, dù về mặt hình thức, lãnh đạo và cầm quyền có
nhiều nét tương đồng.
Chính nhà lãnh đạo đó sẽ là người thiết kế ra những
tương lai mới, và thuyết phục được toàn dân tin tưởng vào tương lai đó, để sau
đó huy động toàn lực để hiện thực hóa tương lai đó. Thông qua đó, nhà lãnh đạo
nhận được sự tin tưởng, và bản thân sự lãnh đạo, như một sự ban trao từ phía
người dân. Nếu người được bầu chọn không có khả năng thiết kế ra một tương lai
như vậy, và không có khả năng thuyết phục toàn dân tin tưởng vào tương lai đó,
và không thể tập hợp được đủ người tài và nguồn lực để hiện thực hóa tương lai
đó, thì đó là một sự lựa chọn nhầm lẫn. Trong trường hợp đó, cùng lắm chúng ta
cũng chỉ có một nhà cầm quyền, chứ không phải là một nhà lãnh đạo.
Lưu ý rằng, sự lãnh đạo và sự tin tưởng đích thực, bản
thân nó không tự xuất hiện với nhà lãnh đạo, cũng không thể giành giật được, mà
chỉ có thể có được thông qua sự ban trao từ phía những người được lãnh đạo. Nếu
không được ban trao, sự lãnh đạo chỉ có thể gọi tên là sự tiếm quyền. Vì thế, nhà
lãnh đạo chỉ xuất hiện khi việc bầu cử được diễn ra trong dân chủ, công khai và
minh bạch.
Giờ vừa sang năm 2016, Việt Nam dự kiến sẽ sớm hội
nhập sâu rộng với thế giới sau khi hiệp định TTP được ký kết. Nhu cầu phát triển
bứt phá của Việt Nam cũng đang là yêu cầu bức thiết, khi chỉ còn khoảng 10 năm
nữa thôi là thời kỳ dân số vàng để phát triển sẽ qua đi và bẫy thu nhập trung
bình thì đang giăng ra trước mắt. Trong hoàn cảnh đó, một nhà lãnh đạo đích thực
là điều mà Việt Nam cần nhất.
Nhưng nhìn quanh thấy thời khắc chuyển giao lãnh đạo
đang diễn ra rầm rộ, mà câu chuyện về lãnh đạo vẫn chưa được bàn thảo đầy đủ.
Ngoài việc bàn tán ai đi ai ở, với hàm ý ai sẽ nắm quyền lực, thì câu hỏi cơ bản:
lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác với cầm quyền như thế nào, lại không
thấy ai bàn.
Vậy tại sao lại không đi thẳng vào câu hỏi này: Lãnh đạo có nghĩa là gì, và lãnh đạo khác cầm quyền ở điểm
nào?
Khi đã chọn nhìn thẳng vào những câu hỏi căn cốt như
thế, thì cách hiểu về lãnh đạo và lựa chọn lãnh đạo cũng sẽ khác đi. Ai đi ai ở
không phải là quan trọng nhất, mà ai xứng đáng là lãnh đạo và làm sao để có được
người xứng đáng đó mới là điều cốt yếu.
Bài viết này sẽ tập trung làm
sáng tỏ chỉ một điểm này. Những nội dung khác, sẽ bàn trong các dịp thuận tiện khác.
Trước hết cần lưu ý, vì lãnh đạo thường gắn liền với quyền lực và chức
vị, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, nên khi nói đến lãnh đạo, người ta sẽ
liên hệ ngay đến chức vị và quyền lực. Do đó, lãnh đạo thường bị đồng nhất với
cầm quyền. Nhưng lãnh đạo và cầm quyền là khác nhau về bản chất. Nhà lãnh đạo
không nhất thiết phải có chức vị và phải cầm quyền, còn người cầm quyền, dù có cả chức vị đi theo, cũng chưa chắc đã là nhà lãnh
đạo. Chính sự nhầm lẫn về lãnh đạo và cầm quyền đã
gây ra những cuộc đua nắm giữ quyền lực không phải cách, dẫn đến việc tạo ra
các nhà cầm quyền tiếm danh lãnh đạo, thay vì các nhà lãnh đạo đích thực. Và
quyền lực trong trường hợp này trở thành mục tiêu của nhà cầm quyền tiếm danh
lãnh đạo, thay vì là công cụ của của nhà lãnh đạo đích thực.
Vậy sự khác biệt đó là gì?
Cách
thức đạt được quyền lực
Điểm khác biệt đầu tiên là khác
biệt trong cách thức đến với quyền lực. Đây là điểm khác biệt mấu chốt, dẫn đến
các cách hành xử khác nhau của nhà lãnh đạo đích thựcvà nhà cầm quyền mang
danh lãnh đạo. Với nhà lãnh đạo chính trị, quyền lực
và rộng hơn là sự lãnh đạo, phải được ban trao từ phía người dân trong sự tin tưởng và tự nguyện. Còn với nhà cầm quyền mang danh lãnh đạo, quyền lực này có thể đến đượcthông qua sắp đặt hoặc chiếm đoạt.
Vì sự lãnh đạo là được ban trao từ phía người dân,
nên khi thấy nhà lãnh đạo không đáp ứng được kỳ vọng của mình, người dân có quyền
và có cơ chế để lấy lại sự ban trao này. Vì thế, lãnh đạo bao giờ cũng gắn liền
với nhiệm kỳ. Còn cầm quyền thì ngược lại, quyền lực đến với nhà cầm quyền
không bởi sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt, nên về bản chất là không
có nhiệm kỳ, và nhân dân bị ngăn cản để lấy lại quyền lực lẽ ra sẽ thuộc về nhà
lãnh đạo do nhân dân lựa chọn. Vì lẽ đó, với nhà lãnh đạo thì quyền lực chỉ là
một phương tiện để thực hiện công việc lãnh đạo của mình. Còn với nhà cầm quyền,
quyền lực trở thành mục đích.
Lưu ý rằng, sự ban trao lãnh đạo này chỉ có thể được
thực hiện thông qua bầu cử dân chủ và minh bạch. Điều đó có nghĩa, bầu cử để lựa
chọn nhà lãnh đạo là quan trọng, nhưng cách thức bầu cử còn quan trọng hơn. Chỉ
thông qua bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo mới được ban trao quyền lực. Còn bất kỳ
hình thức ban trao nào khác, dù nhân danh bất cứ điều gì hoặc bất cứ giá trị
nào, như dòng dõi của các hoàng gia, hay đức tin của các tôn giáo, hay đề cử
riêng của các đảng phái, hay bất cứ một nhân danh nào khác ngoài lá phiếu của
người dân, thì đó không phải là một sự ban trao đích thực, mà thực chất là một
sự sắp xếp. Lãnh đạo có được thông qua sắp xếp, dù theo chủ ý nhất thời của một
thế lực nào đó, hoặc là sự mở rộng tự nhiên của truyền thống, thì cùng lắm cũng
chỉ có thể là nhà cầm quyền. Còn nếu không thì sẽ rơi vào trạng thái bù nhìn
cho các thế lực hậu trường giật dây.
Đó là lý do vì sao ở các quốc gia quân chủ lập hiến,
khi ngôi vua được kế thừa theo kiểu cha truyền con nối, thì ngôi vua đó chỉ có
giá trị biểu trưng về mặt văn hóa và truyền thống, đóng vai trò như một kết nối
trong khối đoàn kết của toàn dân, còn nhà lãnh đạo thực sự đang dẫn dắt quốc
gia đó vẫn phải được bầu theo nhiệm kỳ để thông qua đó, nhà lãnh đạo được ban
trao quyền lực.
Bản
chất công việc lãnh đạo
Điểm khác biệt thứ hai là khác biệt trong công việc thực sự của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Với nhà lãnh đạo,
công việc của anh ta là thiết kế một tương lai chung cho tất cả mọi người,
thuyết phục được mọi người tin tưởng vào tương lai đó, và cuối cùng là tìm mọi
cách để hiện thực hóa tương lai đó. Anh ta được ban trao quyền lực, và rộng hơn là ban trao sự lãnh đạo, để thực hiện
công việc thiết kế tương lai và hiện thực hóa tương lai này. Thiết kế tương lai
chung, trước hết dưới dạng các viễn cảnh được mô tả rõ ràng và thuyết phục, và
sau đó là tìm mọi cách để hiện thực hóa tương lai đó, là công việc chủ chốt của
nhà lãnh đạo.
Nhưng với nhà cầm quyền, vì quyền lực và vị trí của họ không đến thông qua sự ban trao tự nguyện của
người dân, công việc của nhà cầm quyền sẽ chỉ tập trung vào việc giữ
cho bằng được quyền lực và vị trí của mình. Họ sẽ tìm mọi cách hợp thức hóa việc nắm giữ quyền lực và vị trí này, thông qua mọi
phương tiện, không chỉ tuyên truyền mà còn cả đe dọa và đàn áp.
Ngay cả khi nhà cầm quyền chủ ý thiết kế và hiện thực hóa một tương lai nào
đó, thì tương lai này vẫn sẽ bị giới hạn bởi điều kiện
tiên quyết là không ảnh hưởng đến quyền lực và vị trí
anh ta đang nắm giữ. Vì thế,
tương lai đó không bao giờ là tương lai tốt nhất có thể có, và chỉ có thể đáp ứng được mối quan tâm của một nhóm người có lợi ích liên
quan, chứ không phải của tất cả mọi người, trừ phi nhà cầm quyền tự chuyển hóa
trở thành nhà lãnh đạo.
Miền
thời gian lưu trú
Điểm khác biệt thứ ba là
miền thời gian mà nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền đến sống và làm việc ở trong đó. Với nhà lãnh đạo, miền thời
gian mà họ sống và làm việc là tương lai của chính dân
tộc họ, và họ phải là hiện thân của chính tương lai đó. Vì thế, họ phải là người có tầm nhìn, phải có khả năng nhìn thấy tương lai, từ đó thiết kế ra một tương lai tốt hơn cho tất cả
mọi người và tạo động lực để tất cả mọi người cùng hiện thực hóa tương lai đó. Nhà lãnh đạo tìm thấy bản thân mình và tính chính
danh trong công việc của mình ở trong tương lai. Nhưng tương lai bao giờ cũng bất
định, vì lẽ đó, nhà lãnh đạo đòi hỏi không chỉ giỏi về chuyên môn, mà quan trọng
trước hết là bản lĩnh dám đối mặt với sự thay đổi, dám ra những quyết sách lớn
và dám chịu trách nhiệm với những quyết sách lớn đó. Nhưng các nội dung này lại
phải đặt trong bối cảnh của sự ban trao quyền lãnh đạo từ phía người dân, nên
nhà lãnh đạo trước hết phải có đạo đức để tạo ra sự tin tưởng, và khả năng tập
hợp người tài để sau khi đã thiết kế ra một tương lai chung, thì còn phải hiện
thực hóa tương lai đó.
Còn nhà cầm quyền thì ngược lại, họ sẽ thường trú ngụ trong quá khứ, vì chỉ
trong quá khứ, nơi các sự kiện đã xảy ra, họ mới tìm ra được các lý do để biện minh cho sự tồn tại của
mình ở trong hiện tại, theo nghĩa hiện tại là sự nối dài
của quá khứ. Còn trong tương lai, các sự kiện chưa xảy ra, nên dù có
muốn, họ cũng không thể sử dụng. Vì thế, nhà cầm quyền
sẽ không cần bản lĩnh đương đầu với một tương lai bất định, mà chỉ cần nhiều
mưu mô để bày binh bố trận, sắp xếp quá khứ và hiện tại sao cho có lợi nhất cho
mình. Nhà cầm quyền cũng sẽ không cần người tài để hiện thực hóa một tương lai
đã được thiết kế, mà cần trước hết các bè phái hoặc nhóm lợi ích thân tín để bảo
vệ lẫn nhau và duy trì quyền lực cũng như vị trí hiện thời.
Trong nhiều trường hợp, nếu nhà cầm quyền cũng quan
tâm đến tương lai và thiết kế ra một tương lai mới, thì phải xét xem tương lai
đó đáp ứng được lợi ích chính của nhóm đối tượng nào. Nếu tương lai đó chỉ phục
vụ cho lợi ích của một nhóm, nhưng nhân danh cả dân tộc, thì đó là một thủ thuật
của nhà cầm quyền, còn nếu tương lai đó đáp ứng lợi ích chung của toàn dân, thì
trong trường hợp đó, nhà cầm quyền đã tự chuyển hóa thành nhà lãnh đạo.
Như vậy có thể thấy, nhà lãnh
đạo là người sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến tương lai, còn nhà cầm
quyền sẽ sống trong vùng thời gian từ hiện tại đến quá khứ. Vậy nên, khi nghe
các ứng viên thuyết trình, nếu họ nói về tương lai và về chương trình hành động để hiện thực hóa tương lai đó, và thuyết phục người dân tin tưởng vàotương lai
đó và đồng lòng hiện thực hóa nó, ta biết đó là nhà lãnh đạo. Còn nếu ứng viên
nói về quá khứ, và dùng quá khứ như một sự đảm bảo cho tính chính đáng của mình, thì ta biết
đó là nhà cầm quyền.
Một cách logic, chỉ người sống
trong tương lai mới có thể đưa toàn dân đi đến tương lai. Sự phát triển đột phá
sẽ chỉ xảy đến trong trường hợp này. Còn người sống trong quá khứ, sẽ muốn toàn dân trú ngụ ở trong
quá khứ, đặc biệt là quá khứ có chút hào quang. Tuy nhiên,
thời gian không ngừng trôi, tương lai không thể tránh, nên tương lai trong trường hợp của nhà cầm quyền sẽ là chỉ đơn thuần là sự mở rộng của quá khứ.
Nó chỉ đơn thuần là sự tịnh tiến trong thời gian của quá khứ. Mọi sự đều có thể
đoán biết trước mà không có sự phát triển đột phá nào có thể đến. Đó chính là
lý do vì sao các thể chế phong kiến có thể kéo dài hàng nghìn năm mà sự phát
triển cứ như giậm chân tại chỗ. Vì họ chỉ sống trong quá khứ, luôn lấy quá khứ
làm chuẩn mực, nên không vượt qua được quá khứ của mình. Mà đã không vượt qua
được quá khứ của mình thì thời gian trôi họ cũng sẽ chỉ giậm chân tại chỗ mà
thôi.
Nếu giậm chân tại chỗ có thể là mục đích của nhà cầm
quyền, thì đó là điều không nhà lãnh đạo nào mong muốn. Vì khi để dân tộc giậm
châm tại chỗ, trong khi các dân tộc khác vẫn không ngừng mải miết tiến lên, nhà
lãnh đạo đã không hoàn thành sứ mệnh của mình, vì thế sự lãnh đạo mà họ đã được
ban trao sẽ bị nhân dân lấy lại. Còn nhà cầm quyền thường tìm cách kiểm soát xã
hội để ngăn chặn nguy cơ này, nên họ có thể hài lòng với trạng thái giậm chân tại
chỗ này, miễn sao quyền lực và vị trí của mình được đảm bảo.
Hệ
thống chính trị hướng đến
Điểm khác biệt thứ tư là khác biệt ở hệ thống chính
trị nhà lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền xây dựng lên.
Để thực hiện được công việc lãnh đạo của mình, một
trong những nền tảng bắt buộc nhà lãnh đạo phải có, đó là sự chính trực vẹn
toàn trong công việc và lời nói của mình.
Lý tưởng của nhà lãnh đạo, ước mơ hay khát vọng của
họ, không ai có thể truy nhập trực tiếp được. Nhưng người dân sẽ biết được gián
tiếp những điều đó thông qua lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo. Và quan trọng
hơn, người dân có thể giám sát được những điều đó, để từ đó tin tưởng và ban
trao sự lãnh đạo. Chỉ khi được ban trao sự lãnh đạo, trong tin tưởng và tự nguyện,
thì nhà lãnh đạo mới có thể hành xử công việc lãnh đạo của mình. Và cũng chỉ
khi đó, các dự án lãnh đạo mới có thể thành việc.
Sự chính trực vẹn toàn này sẽ không chỉ dừng ở trong
lời nói và việc làm của nhà lãnh đạo, mà phải được mở rộng ra cả hệ thống mà
người đó thiết kế và vận hành, và thể hiện ra thành sự minh bạch. Một hệ thống
chính trực là một hệ thống minh bạch. Chính vì vậy, nhà lãnh đạo bao giờ cũng
hướng đến việc xây dựng một hệ thống minh bạch, còn nhà cầm quyền thì không. Vì
với nhà cầm quyền, quyền lực đến được không qua sự ban trao, mà qua sắp xếp hoặc
chiếm đoạt. Vì thế, nhà cầm quyền sẽ không quan tâm đến sự tin tưởng của người
dân, mà tập trung vào tuân thủ và đàn áp.
Để công việc lãnh đạo được thành công, nhà lãnh đạo
bắt buộc phải thuyết phục được toàn dân tham gia, và huy động được mọi nguồn lực
của người dân, để hiện thực hóa các dự án lãnh đạo của mình, hay rộng hơn là
toàn bộ tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra. Để làm được điều này, yêu cầu
tiên quyết là toàn dân phải có cơ hội được tham gia ngay từ những khâu đầu
tiên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện của mình.
Muốn vậy, nhà lãnh đạo phải có thêm một nền tảng cốt
yếu khác, là bao dung hội hợp. Chỉ khi có được sự bao dung hội hợp thì nhà lãnh
đạo mới có thể thu hút được đủ người tài, và có được đủ sự ủng hộ của toàn dân
để hiện thực hóa các chương trình lãnh đạo của mình.
Với hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam, khi chiến
tranh xảy ra liên miên, chia cắt lòng người còn nặng nề, thì bao dung hội hợp lại
càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
Sự bao dung hội hợp này, cũng tương tự như chính trực
vẹn toàn, phải được mở rộng ra cả hệ thống chính trị mà nhà lãnh đạo xây dựng
lên.
Vậy đâu là một hệ thống có khả năng bao dung hội hợp
với mọi người dân? Rõ ràng, đó chỉ có thể là một hệ thống dân chủ. Vì hệ thống
dân chủ cho phép mọi người dân đều có cơ hội được tham gia và đóng góp, được
bày tỏ chính kiến của mình trong việc phát triển đất nước. Còn một hệ thống độc
tài sẽ không có khả năng làm được việc này.
Và trở lại cách thức đạt được quyền lực rằng, nhà
lãnh đạo sẽ đạt được quyền lực thông qua sự ban trao, mà cụ thể là một cuộc bầu
cử dân chủ và minh bạch, còn nhà cầm quyền sẽ đạt được quyền lực thông qua sắp
xếp hoặc chiếm đoạt, sẽ thấy rằng nhà lãnh đạo sẽ hướng đến việc xây dựng một hệ
thống chính trị dân chủ, không chỉ vì một hệ thống như vậy sẽ mang lại tính
chính danh cho quyền lực và vị trí mà họ đang nắm giữ, mà nó còn là một công cụ
đắc lực để họ huy động mọi người lực trong việc hiện thực hóa các chương trình
lãnh đọa của mình. Còn nhà cầm quyền sẽ lảng tránh việc này, vì nó đe dọa trực
tiếp đến quyền lực và vị trí mà họ đang có được thông qua sắp xếp hoặc chiếm đoạt.
Vậy nên, nhìn vào hệ thống chính trị đang được xây dựng,
có thể biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Sứ mệnh
cá nhân
Điểm khác biệt thứ năm là sứ mệnh cá nhân mà nhà
lãnh đạo hoặc nhà cầm quyền tự đặt ra cho mình.
Nhà lãnh đạo, xuất phát từ cách thức đạt được quyền
lực và bản chất công việc của mình, thường tự đặt ra một sứ mệnh cá nhân lớn
lơn mối quan tâm của bản thân, gia đình hoặc phe nhóm mình, tức gắn liền sứ mệnh
cá nhân của mình với tương lai của cộng đồng mình dẫn dắt. Vì sao vậy? Vì chỉ
thông qua cách đó, nhà lãnh đạo mới có được sự tin tưởng và ban trao sứ mệnh lạo
của người dân. Và cũng chỉ bằng cách đó, nhà lãnh đạo mới có thể thuyết phục
người dân tin vào tương lai mà nhà lãnh đạo thiết kế ra, và cùng hợp tác với
nhà lãnh đạo để hiện thực hóa tương lai đó. Nếu sứ mệnh của nhà lãnh đạo chỉ
đơn thuần là để vinh thân phì gia, hoặc chỉ nhằm mang lại lợi ích cho phe nhóm
mình, thì không có cách nào thuyết phục được người dân tin tưởng để ban trao sự
lãnh đạo. Đó là lý do vì sao trong các cuộc bầu cử dân chủ, nhà lãnh đạo tương
lai luôn phải truyền thông và trình bày về chương trình hành động của mình, để
thông qua đó người dân thấy và đánh giá được tương lai mà nhà lãnh đạo dự kiến
sẽ tạo ra có đáng thuyết phục, sứ mệnh của nhà lãnh đạo có gắn với mệnh vận mệnh
của dân tộc hay không. Chính vì lẽ đó, một nhà lãnh đạo đích thực luôn mang
trong mình một sứ mệnh cá nhân lớn lao, và luốn hướng đến việc trở thành và
hành động bởi những điều lớn hơn bản thân, gia đình hay phe nhóm của mình.
Nhà cầm quyền thì ngược lại. Do cách thức đạt được
quyền lực thông qua kế truyền, sắp xếp hoặc chiếm đoạt, và bản chất của công việc
cầm quyền là tìm mọi cách để hợp thức hóa và duy trì quyền lực đã có, sứ mệnh của
nhà cầm quyền thường chỉ giới hạn trong việc duy trì và trục lợi từ quyền lực
đang có, cho cá nhân, gia đình hoặc phe nhóm của mình. Nhà cầm quyền không quan
tâm đến việc mình có được người dân tin tưởng ban trao cho sự lãnh đạo hay
không, nên không có động lực đặt ra những sứ mệnh cá nhân lớn hơn bản thân
mình, và xông pha gánh vác những công việc khó khăn liên quan đến vận mệnh của
cả dân tộc. Trong hầu hết các trường hợp, nhà cầm quyền sẵn sàng hy sinh lợi
ích của dân tộc để đánh đổi lấy lợi ích cá nhân. Lịch sử khắp nơi đã cho thấy,
nhiều nhà cầm quyền sẵn sàng đánh đổi chủ quyền hoặc đẩy dân tộc đến bước tồn
vong chỉ để duy trì sự cầm quyền hoặc bảo vệ lợi ích của cá nhân mình. Thậm
chí, họ sẵn sàng mua bán đổi trác lợi ích của dân tộc chỉ để thỏa mãn hưởng thụ
cá nhân, nhiều khi chỉ tính bằng một vài cuộc ăn chơi trác táng. Đó là lý do vì
sao ở những nước dân chủ, đạo đức cá nhân hay cách thức sử dụng tài sản công lại
là vấn đề quan trọng và nhạy cảm với nhà lãnh đạo. Nhiều người đã phải từ chức
vì những vụ việc cá nhân cỏn con như vậy. Nhưng dưới con mắt của người dân thì
vấn đề không hề cỏn con chút nào, bởi qua đó, người dân sẽ nhận ra sứ mệnh
trong công việc mà anh đang thực thi, và nhận diện ra anh là nhà lãnh đạo hay
nhà cầm quyền. Nếu đó là nhà cầm quyền, người dân sẽ thu hồi lại sự lãnh đạo mà
họ đã ban trao, trước hết thông qua công luận, sau là qua các thủ tục pháp lý nếu
cần, vì thế nhà lãnh đạo không còn cách nào khác là phải từ chức.
Tâm
thế hành xử
Điểm khác biệt thứ sáu là khác biệt trong tâm thế hành
xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền. Xuất phát từ cách
thức đạt được quyền lực, và bản chất của công việc lãnh đạo và cầm quyền là
khác nhau, nên tâm thế hành xử của nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền cũng khác
nhau. Nếu như nhà lãnh đạo dám nhìn
thẳng vào hiện tại, đối mặt với hiện tại theo cách nó đúng là như vậy, để từ đó
tìm ra sự thật và các cơ hội, các điều kiện tốt nhất để hiện thực hóa tương lai
mà họ thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ thường nhìn
hiện tại qua lăng kính bảo vệ quyền lực, vì thế thường thấy hiện tại như một sự đe dọa, do đó thường chỉ nhìn ra các thế lực thù địch, nguy cơ và sự bất an. Vìlẽ đó, nếu nhà lãnh đạo luôn là người có tâm thế chủ động
khi đối mặt với hiện tại,theo nghĩa luôn chủ động tìm ra sự thật và kết nối
các sự thật, tổ chức các nguồn lực hiện có của hiện tại để hiện thực hóa tương
lai mà họ đã thiết kế ra, thì nhà cầm quyền sẽ luôn ở trong tâm thế bị động trước hiện tại, khi luôn coi hiện tại là một mối đe dọa cần xử lý,
thậm chí ngay cả khi anh ta chủ động xử lý hiện tại như xử lý một mối đe dọa thì trên thực tế đó vẫn là một sự bị động vì hiện tại đang diễn biến
theo hướng buộc anh ta phải làm như vậy.
Chính vì thế, nhìn phong thái hành xử của những người
đứng đầu của tổ chức, và rộng hơn là của đất nước, trước những diễn biến của hiện
tại, chúng ta sẽ biết được đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền.
Hiển nhiên, một người chủ động là một người có khả
năng tạo ra sự thay đổi và làm chủ sự thay đổi đó. Đó là một người có quyền lực
thực sự. Còn một người bị động thì muốn hay không anh ta vẫn chỉ là nạn nhân của
sự thay đổi. Đó là một người không có quyền lực thực sự, dù trên thực tế anh ta
có đủ quyền uy và chức vị để hành xử như một người có quyền lực. Điều này cũng
dễ hiểu khi ta trở lại cách thức đạt được quyền lực của nhà lãnh đạo và nhà cầm
quyền, và thấy rằng, quyền lực thực sự chỉ có được khi nó được ban trao trong sự
tin tưởng và tự nguyện, còn quyền uy có thể đạt được thông qua sắp xếp hoặc cưỡng
đoạt.
Nói cách khác, nhà lãnh đạo có được quyền lực thông
qua sự ban trao, trong tự do và tin tưởng. Còn nhà cầm quyền có được quyền uy
thông qua sự sắp xếp và chiếm đoạt, trong mưu mô và đe dọa.
Chuyển
hóa cầm quyền – lãnh đạo
Cần lưu ý là có tồn tại sự chuyển hóa qua lại giữa lãnh đạo và cầm quyền.
Nếu như trong quá khứ, một người hoặc nhóm người đã từng là nhà lãnh đạo vì
họ được người dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo, do họ đã tạo ra được một tương lai chung đáp ứng được mối quan
tâm của tất cả mọi người, họ thuyết phục mọi người tin theo và bản thân họ là người nỗ lực hiện thực hóa tương lai
đó, mà thường gặp nhất là lãnh đạo của các phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc, thì rất có thể sau đó khi sứ mệnh ban đầu đã
hoàn tất, họ sẽ không còn
là nhà lãnh đạo nữa, mà đã chuyển hóa thành nhà cầm quyền khi chỉ tập trung vào
việc duy trì quyền lực của mình, và dùng hào quang của
quá khứ để hợp thức hóa sự cầm quyền đó, trong khi tương lai mà họ hướng đến chỉ nhằm đáp ứng
mối quan tâm của chính họ và một nhóm người có lợi ích
liên quanchứ không phải là một tương
lai chung đáp ứng mối quan tâm của tất cả mọi người.Trong trường hợp ấy, người đó
hoặc nhóm người đó đích thị là một nhà cầm quyền, chứ không phải nhà lãnh đạo.
Ngược lại, một nhà cầm quyền khi chuyển đổi công việc
của mình từ việc tìm mọi cách bảo vệ quyền lực và lợi ích của mình hiện thời,
sang thiết kế một tương lai chung cho toàn dân tộc, thuyết phục toàn dân tin
vào tương lai đó và nỗ lực hiện thực hóa nó thì nhà cầm quyền khi đó đã chuyển
hóa trở thành nhà lãnh đạo. Trong nhiều trường hợp, tuy sự chuyển hóa này không
đủ rõ ràng về hình thức, và nhà cầm quyền tuy vẫn mang danh là nhà cầm quyền,
thậm chí mang danh độc tài, thì về nội dung, người đó đã tự chuyển hóa để trở
thành nhà lãnh đạo, vì công việc người đó thực hiện và sứ mệnh mà người đó gánh
vác là công việc và sứ mệnh của nhà lãnh đạo, cho dù cách thức đến với công việc
và sứ mệnh đó không được chính danh thông qua sự ban trao của người dân. Tuy
nhiên, lịch sử sẽ công bằng nhìn ra người đó là nhà lãnh đạo hay nhà cầm quyền,
và sẽ ghi nhận đầy đủ những gì mà người đó đóng góp.
Với Việt Nam, câu chuyện về lãnh đạo và cầm quyền là
câu chuyện thời sự. Chúng ta đã từng có nhà lãnh đạo, nhưng chưa bao giờ chúng
ta thiếu các nhà lãnh đạo như hiện giờ. Nhìn đâu cũng chỉ thấy nhà cầm quyền, ở
mọi cấp độ. Câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có tiếp tục cần các nhà cầm quyền?
Hiển nhiên là không, chúng ta cần các nhà lãnh đạo chứ không cần các nhà cầm
quyền. Nhưng bằng cách nào để có được các nhà lãnh đạo, và làm sao để tạo ra một
môi trường để cho nhà lãnh đạo xuất hiện và thực hiện công việc của mình?
Câu trả lời xin bỏ ngỏ cho những ai đang suy tư và
hành động để thúc đẩy sự phát triển đất nước, và đặc biệt cho những người trong
cuộc chuyển giao quyền lực đang diễn ra những ngày đầu năm 2016 này.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày
26-1-16
No comments:
Post a Comment