Tạ
Duy Anh
21-06-2014
Chỉ cần điểm qua cách xưng hô cũng thấy hiện lên một
phần lịch sử quan hệ vừa bi vừa hài giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà can dự rõ
nhất là danh từ đồng chí.
Tình đồng chí giữa lãnh đạo hai nước đạt độ nồng ấm
nhất vào những năm 60 của thế kỷ hai mươi.
Khi đó, mặc dù gần trăm triệu người dân Trung Quốc
chết hoặc trước sau cũng chết bởi cuộc đại cách mạng văn hóa, thì nó vẫn không
ngăn được Tố Hữu, vì tình đồng chí, viết: Trung
Quốc đó bàn tay nào huyền diệu/ Đã nắn lại cả dung nhan dáng điệu/Mặt đồng khô
xóa sạch những bờ ngăn/ Như mặt người tươi giãn những đường nhăn.
Thân tình đến nỗi, trẻ con Việt Nam cũng gọi ông Mao
là “Bác”. Đây là giai đoạn Trung Quốc muốn Việt Nam “đánh Mỹ đến người cuối
cùng”, vì thế họ sẵn sàng là “hậu phương bao la của Việt Nam” như lời ông Mao!
Nhưng hóa ra từ khi ấy, khi là đồng chí thắm thiết của nhau, khi “cùng chí hướng”
giải phóng nhân loại, xóa bỏ biên giới, “Bác Mao” đã chuẩn bị kỹ càng để chiếm
đoạt biển đảo của “con cháu Bác” ở bên Việt Nam. Cú lừa để có cái Công hàm 1958
đầy bi hài là một bằng chứng.
Năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, lúc ấy do
chính phủ Việt Nam cộng hòa kiểm soát. Vì là đồng chí nên Miền Bắc bắt
buộc phải im lặng, như là chẳng liên quan gì đến mình, như là việc của hai quốc
gia láng giềng*. Dân chúng miền Bắc không hề có bất cứ thông tin gì, cảm xúc gì
vì vậy họ không có chút cảm giác nào về chuyện mất mát lãnh thổ. Hoặc nếu có bộ
phận nào biết thì lại thấy như là điều may mắn vì kẻ thù (Việt Nam cộng hòa mà
miền Bắc gọi là Ngụy quyền), mất đi một vị trí chiến lược có thể thọc vào sườn
hậu phương xã hội chủ nghĩa! Danh từ đồng chí cho phép xác định Trung Quốc
là bạn, còn người anh em phía Nam bị mặc nhiên coi là thù! Liệu có biến cố
nào bi hài và thê thảm hơn trong lịch sử người Việt?**
Điều gì phải
đến sẽ đến, mọi thứ nham hiểm của Trung Quốc nấp sau danh từ đồng chí cuối cùng
cũng lộ mặt. Hơn 50 mười ngàn “con cháu bác Mao” (số ước tính của Hoa Kỳ) ở cả
hai bên bị chết trong cuộc tắm máu nhau dọc 6 tỉnh biên giới, trong đó cứ một
người rưỡi Tầu đổi một mạng An Nam. Năm 1979 Hà Nội ra sách trắng về quan hệ Việt-Trung,
tố cáo Trung Quốc phản bội, chơi đểu, lợi dụng Việt Nam khó khăn để mưu thôn
tính từ từ. Thế là chẳng có anh em con cháu gì nữa, chỉ đích danh “bè lũ phản động
Mao” là những kẻ chủ mưu ăn thịt người Việt, sau khi đã no thịt người Hán.
Trong Hiến pháp Việt Nam năm 1980 thậm chí còn ghi rõ Trung Quốc là kẻ thù trực
tiếp, lâu dài, nguy hiểm. Những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đương nhiên là những kẻ
xâm lược. Có bài báo gọi đám con cháu của Tần Thủy Hoàng là “những con chó
Trung Nam Hải”, còn Đặng Tiểu Bình thì là “thằng lùn cao bồi”. Chế Lan Viên,
tác giả của câu thơ nôm na nổi tiếng “Bác
Mao không ở đâu xa/ Bác Hồ ta đó chính là bác Mao” thì lúc ấy có hẳn cả một bài thơ “Vịnh thằng lùn”, viết về Đặng Tiểu
Bình, khá dài, theo thể tự do, trong đó có câu, đại ý: Thằng lùn mặc quần bò/
Thằng lùn thích súc-cù-là…(Có lẽ vì lịch lãm nên nhà thơ không nỡ bảo thằng lùn
thích cứt Mỹ nữa thôi!). Bài thơ này, nếu tôi nhớ không lầm thì in trong tập
“Hoa trên đá”. Nhưng không riêng Chế Lan Viên- chỉ là nghệ sĩ,- nhạy cảm với thời
tiết chính trị, trong vô số phát biểu của các chính trị gia chuyên nghiệp lúc ấy
cũng không ngần ngại gọi các đồng chí một thời ở Bắc Kinh là lũ phản động quốc
tế, những tên lính gác cho bọn tư bản….
Năm 1985, khi đó tôi đang đóng quân ở Lào Cai, vẫn
còn thấy sáng nào hai bên cũng chĩa loa vào nhau qua sông Hồng, một bên réo Tập
đoàn phản động Mao-Đặng, gán cho đủ thứ tội, một bên át đi bằng loa công suất lớn
gấp bội, ồm ồm chỉ đích danh “bè lũ Lê Duẩn” kèm theo hàng chục kết án. Chúng
tôi được quán triệt nhất nhất gọi Trung Quốc là bọn bành trướng Bắc Kinh. Trong
10 bài hát mà mỗi quân nhân phải thuộc hồi ấy, gọi là 10 bài hát điều lệnh, có
bài Tiếng súng đã vang trên bầu trời
biên giới của nhạc sĩ Phạm Tuyên, trong đó có câu: “Quân xâm lược bành
trướng dã man”. Ngày nào trước mỗi cuộc tụ tập, liên hoan, tất cả lại đồng loạt
gào lên: “Quân xâm lược bành trướng dã man”.
Danh từ “đồng chí”
biến mất khỏi mọi văn bản của Việt Nam, khỏi ngôn ngữ đời sống xã hội
khi gắn với Trung Quốc. Ai dám cả gan dùng nó để gọi Trung Quốc thì đích thị là
kẻ vô loài, thiếu văn hóa chính trị tối thiểu, có dã tâm bán nước. Không ai lại
cùng chí hướng với kẻ thù truyền kiếp!
Cho đến
sau năm 1990, mà rồi lịch sử sẽ hé lộ và vì thế mà chúng ta biết có cuộc gặp
Thành Đô. Các nhà lãnh đạo của chúng ta, những người rõ ràng là rất lép vế
trong hội nghị đó, có thể sẽ còn bị lịch sử chế giễu vì mất cảnh giác, khờ khạo
nhưng tôi tin là họ có cả phần trong sáng nữa. Họ tin rằng chủ nghĩa xã hội cần
phải được bảo vệ bằng mọi giá và xem ra chỉ còn Trung Quốc-dù là gã láng giềng
hay chơi bẩn-nhưng khả dĩ làm nơi cố thủ an toàn cho giáo lý Mác. Vì, như ông
Nguyễn Đức Bình, nhà lý luận hàng đầu của Đảng khẳng định: “Nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nữa,
thì đất nước Việt Nam chúng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường
nào?”. Tức là số phận dân tộc
bị đóng đinh câu rút, phải đi qua duy nhất một con đường hầm tên là “quá độ lên
CNXH”, mà một đầu là thần chết! Không có lối thứ hai! Nguy cấp thế kia mà. Dọa nhau thế ai chả sợ,
nhất là những người quen đánh nhau hơn là đọc sách! Hoặc quá độ lên CNXH, hoặc
chết! Các nước khác, như Nhật, Hàn, Singopore có cả ngàn lối đến tương lai,
cũng kệ họ, không được phép ngó nghiêng. Ai bảo sinh ra là người Việt? Những
người chủ trương như ông Nguyễn Đức Bình chỉ quên (hoặc cố tình không biết) một
điều: các đồng chí Trung Quốc của họ chưa bao giờ coi chủ nghĩa xã hội là thứ
gì quan trọng. Chúng ta hãy đọc lời giáo huấn đầy tính mỉa mai sau đây của Mao
về giáo lý Mác, với cấp dưới ông ta: “Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các
Mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải vì nó đựng một phép
thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi.(TDA nhấn mạnh) Có nhiều người cho nó là
thần dược trừ bách bệnh. Chính những người này đã xem thuyết Các Mác là một
giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích
lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu ruộng đất, giáo lý không làm được
việc đó.”
Hội
nghị Thành Đô đã đưa danh từ đồng chí trở lại trong quan hệ hai nước, tạo ra một
giai đoạn hòa bình tương đối không thể nói là không quan trọng*** cho Việt Nam,
nhưng về cơ bản nó gây nên những thay đổi âm thầm số phận người Việt theo hướng
tiêu cực là chính. Vì là đồng chí nên mọi việc lớn bé Việt Nam đều phải
tham vấn Trung Quốc. Phụ thuộc toàn diện. (Như tiết lộ mới đây của cụ Nguyễn Trọng
Vĩnh về sự can thiệp của Trung Quốc vào vấn đề nội bộ nhất không chỉ của Việt
Nam, mà của bất cứ quốc gia nào, là vấn đề chọn nhân sự lãnh đạo đất nước).
Trung Quốc âm thầm và ráo riết chuẩn bị mọi mặt để
chiếm biển Đông nhưng lấy tình đồng chí làm vật che mắt Việt Nam. Vì tình đồng
chí Việt Nam không dám công khai vạch tội Trung Quốc ăn hiếp ngư dân Việt, luôn
phải gọi chệch đi. Tầu Trung Quốc rành rành nhưng phải gọi là “tầu lạ”. Suốt
bao nhiêu năm Việt Nam không dám chọn bạn tốt để chơi (bất cứ quốc gia nào cũng
tốt với Việt Nam hơn Trung Quốc), dù biết là có lợi lâu dài cho đất nước, chỉ
đơn giản vì những người bạn ấy đều không cùng hội cùng thuyền với Trung Quốc. Bất
cứ ai nhắc đến dã tâm của Trung Quốc cũng bị coi là làm ảnh hưởng đại cục, phá
quấy an ninh! Trung Quốc tận dụng triệt để cái hàm thiếc đồng chí để kìm hãm Việt
Nam, cả trong đối ngoại lẫn đối nội. Chưa bao giờ danh từ đồng chí mang lại nhiều
lợi lộc cho Trung Quốc như giai đoạn hai chục năm vừa qua. Tất nhiên người thiệt
hại to lớn là Việt Nam.
Viết đến đây
tôi bỗng muốn dừng lại để tìm về nguồn gốc của danh từ đồng chí. Nó là bùa chú gì
mà giam hãm Việt Nam trong vòng cương tỏa của Trung Quốc đơn giản đến thế, khiến
số phận dân tộc cứ vật vã tơi bời bởi họ lâu đến thế và liệu nó còn tự tung tự
tác đến bao giờ?
Hầu như mọi ngôn ngữ lớn đều có từ đồng chí và chắc
chắn lúc khởi thủy nó không mang mầu sắc chính trị. Nó được dùng tại Trung Quốc
từ hàng ngàn năm trước khi xuất hiện những người theo chủ nghĩa cộng sản. Trong
những bang hội, những tổ chức xã hội đen có tổ chức, những băng nhóm chính trị
hoạt động ngoài vòng pháp luật như Hội tam hoàng ở phương Đông, tổ chứ 3K
chuyên giết người tàn bạo ở Mỹ vì phân biệt chủng, các thành viên đều là những
người cùng chí hướng. Đảng Quốc Xã của Hitler, các đảng viên cũng xưng với nhau
là đồng chí. Tình đồng chí đậm nhất có lẽ thuộc về đảng của Pôn-pốt. Cùng đi ăn
cướp cũng là đồng chí. Chỉ đơn giản vì nó là cùng chí hướng, một khái niệm thuần túy ngôn ngữ. Nó chẳng hề
có xuất thân danh giá như nhiều người vẫn tưởng. Về sau nó được chính trị hóa
và trở nên “linh thiêng” như ta đang thấy.
Sau sự kiện giàn khoan HD-981, số phận của từ đồng
chí lại một lần nữa trở nên mong manh và bi hài. Các báo của nhà nước đều dùng
từ ông, ngài để gọi các lãnh đạo Trung Quốc. Lần đầu tiên sau hơn 20 năm, Đài
truyền hình Việt Nam không dùng từ đồng chí trước tên Dương Khiết Trì khi đưa
tin ông này sang Hà Nội. Bởi vì chính Trung Quốc đã làm cho từ đồng chí trở nên
rất giả dối, sống sượng, đồng nghĩa với từ lừa lọc. Chả lẽ qua ngần ấy biến cố,
lộ rõ bộ mặt đểu cáng, dã tâm độc ác của Trung Quốc, lại vẫn là đồng chí (cùng
chí hướng) của nhau thì thật lố bịch? Cả trăm triệu người dân Việt đầy lòng tự
trọng “quyết không đổi chủ quyền thiêng liêng lấy thứ hữu nghị viển vông” chắc
chắn sẽ cảm thấy bị làm nhục và nổi giận. Xác đồng bào của họ vẫn còn bập bềnh
trên biển Đông bởi súng đạn Trung Quốc. Chẳng ai chấp nhận cùng chí hướng với kẻ
cướp chính đất nước mình, giết anh em, đồng bào, người thân của mình, ngoại trừ
phải gọi rõ ra là đồng chí địch!
Lịch sử quan hệ hai quốc gia suốt hàng ngàn năm qua
(ít nhất là đến trước năm 1949) cho thấy chưa bao giờ người Việt cùng chí hướng với người Hán. Đơn giản
vì lợi ích lãnh thổ của Trung Quốc luôn đi kèm với việc thôn tính hoặc gặm nhấm
Việt Nam. Trong hoàn cảnh phải sống cạnh
một gã khổng lồ thì hòa hiếu luôn là điều kiện sống còn để Việt Nam tồn tại và
phát triển. Nhưng cũng chính lịch sử cho thấy, Việt Nam muốn có hòa hiếu thực sự
với Trung Quốc thì phải độc lập tối đa với họ. Mà muốn vậy thì Dân tộc
phải là lợi ích cao nhất của mọi tính toán chính trị, được thể hiện
trong chiến lược quốc gia tầm nhìn hàng trăm năm****, là sản phẩm của tầng lớp
trí thức tinh hoa chưa bị nhiễm độc bởi bất cứ khẩu hiệu mang tính phô diễn lập
trường nào, nghĩa là hoàn toàn tự do và trong sạch. Không có cách nào khác. Mọi
ảo tưởng về sự mật thiết dựa trên tương đồng ý thức hệ hoặc sự gắn bó mang tính
đảng phái, rốt cuộc chỉ là cách tự sát từ từ.
-----------------------------------------------------------------------
*Trong một liệu nào đó mà tôi không nhớ, cho rằng
sau khi Trung Quốc làm chủ hoàn toàn Hoàng Sa, Hà Nội có gửi điện “cảm ơn” Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa đã “giải phóng giúp” miền Bắc một phần lãnh thổ khỏi tay
kẻ thù? Trung Quốc im lặng. Nếu quả thực có chuyện như vậy thì có thể coi đó là
bằng cớ gián tiếp xác định chủ quyền của phía Việt Nam với quần đảo này. Nhưng
chưa thấy thông tin chính thức nào xác nhận chuyện đó.
** Quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan y như
quan hệ giữa Bắc và Nam Việt Nam về mức độ thù địch và ý thức hệ. Nhưng khi Mao
lệnh đánh chiếm Hoàng Sa, chính quyền Đài Loan, dựa theo lợi ích của người Hán,
nhanh chóng ngầm tạo điều kiện để hải quân Trung Quốc thuận lợi trong việc di
chuyển tiếp cận vị trí tác chiến. Cứ nghĩ thế mà thấy cay đắng cho người Việt
mình!
*** Chúng ta cần thêm cả một chút công bằng khi phán
xét Hội nghị Thành Đô. Tình thế đất nước lúc đó đã như trứng để đầu gậy, cần phải
có hòa bình để tìm cách thoát hiểm. Đáng trách là ở những gì diễn ra sau đó,
kéo dài mấy chục năm, bỏ lỡ cơ hội vàng hòa nhập với thế giới văn minh, hiện đại
hóa đất nước, tạo sức mạnh cả quân sự, ngoại giao, uy tín quốc tế… đặng xác lập
quan hệ bình đẳng với Trung Quốc.
**** Chừng nào còn chưa có một Chiến lược quốc
gia trong phát triển, Việt Nam sẽ chỉ là một đất nước nghiệp dư trong giải
quyết mọi vấn đề, may ăn, rủi chịu, thua thiệt là chính.
No comments:
Post a Comment