Trần
Quang Thành phỏng vấn nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
Posted by adminbasam
on 06/06/2014
Lời
giới thiệu: Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á IISS (hay còn gọi
là Đối thoại Shangri-La) lần thứ 13 được tổ chức tại Singapore từ ngày 30/5 đến
ngày 1/6 mới đây có sự tham dự của 450 đại biểu, gồm các quan chức quân sự
cấp cao, các chuyên gia an ninh, và bộ trưởng quốc phòng các nước, Mỹ, Nhật Bản,
Anh, Malaysia, Indonesia, Australia, Việt Nam, Singapore, Pháp, New Zealand…
Theo các nhà phân tích, việc Trung Quốc ngang nhiên
hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt
Nam làm nóng diễn đàn Shangri-La năm nay.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe là diễn giả chính tại
lễ khai mại diễn đàn hôm 30/5, đã cam kết ủng hộ các quốc gia Đông Nam Á trong
nỗ lực nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Sáng 31/5/2014, tại Hội nghị đối thoại Quốc phòng an
ninh châu Á (Shangri La 2014), tướng Phùng Quang Thanh có bài phát biểu bày tỏ
quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông.
Nội dung bài phát biểu đó là gì và đã được dư luận
phản ứng ra sao mời quý vị theo dõi phân tích của nhà báo độc lập Phạm Chí
Dũng qua cuộc phỏng vấn cua nhà báo Trần Quang Thành
*
Trần
Quang Thành: Xin chào nhà báo Phạm Chí Dũng, hôm
nay lại gặp nhau để bàn về tình hình đất nước. Thưa nhà báo PHẠM CHÍ DŨNG,
trong hội nghị Sangrila vừa rồi đã để lại điều gì ấn tượng nhất, đáng quan tâm
nhất thưa nhà báo?
Phạm
Chí Dũng : Ấn tượng nhất là lời phát biểu của Đại
tướng Phùng Quang Thanh.
*
TQT: Tại sao lại quan tâm về lời phát biểu của ông ta?
PCD: Trong khi tình hình nước sôi lửa bỏng Trung Quốc xâm lấn
Việt nam đã cận kề, ông đại tướng vẫn cho rằng chưa có gì là biến
động cả, mọi chuyện vẫn tốt đẹp, Việt Nam và Trung Quốc vẫn
là bạn. Ngay cả ông Đặng Ngọc Tùng chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt
nam còn phải nêu rằng đây là một bài học cho tất cả những ai mơ hồ về
16 chữ vàng và 4 tốt, trong khi một đại tướng nắm trọng trách toàn bộ
lực lượng quân đội Việt Nam mà lại phát biểu như thế thì người ta quá thất
vọng. Và rõ ràng là ông Phùng Quang Thanh, mặc dù có tần suất xuất hiện
trên báo chí, công luận ít thôi,nhưng lần xuất hiện này lại gây thất vọng rất lớn
và có lẽ làm giảm sút đáng kể uy tín của ông không chỉ trong dư luận
trong nước mà cả trên chính trường quốc tế.
*
TQT: Ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì bảo là Việt Nam đang chuẩn
bị sẵn sàng mọi tư liệu,mọi chứng cứ để kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, hoặc
là để phanh phui những hành động xâm lược của Trung Quốc. Thế giữa
ông thủ tướng và ông đại tướng có gì là mâu thuẫn nhau không thưa nhà
báo?
PCD: Cả hai ông đều là tướng, nhưng họ có mâu thuẫn và bất
nhất với nhau. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có một lời tuyên bố tương đối kiên
quyết và được dư luận đánh giá là lần đầu tiên trong hai nhiệm kỳ thủ tướng,
ông đã dám có can đảm để nói thẳng ra một điều là “không có tình hữu
nghị viển vông”. Tôi đặc biệt chú ý tới tính từ “viển vông” mà
ông dùng, đó là một tính từ không nằm trong các văn bản của nhà nước. Trong
khi đó văn bản đọc tại hội nghị Shangri-la của Đại tướng Phùng Quang Thanh nghe
nói đã được Bộ Chínhtrị duyệt từng câu từng chữ, và ngay cả cách đọc của
ông cũng không được thuyết phục vì nó hơi bị vấp váp. Như vậy giữa hai vị tướng
này đã có sự mâu thuẫn về mặt quan điểm đường lối, đối sách của Việt Nam đối
với Trung Quốc, và tôi cho đó không phải là một điềm lành đối với Việt Nam.
*
TQT: Như vậy phải chăng trong Bộ Chính trị đã có sự rạn nứt ?
PCD: Tôi nghĩ là rạn nứt thì đã từ lâu rồi. Người ta
khác nhau về quan điểm đối ngoại và đặc biệt là khác nhau về quan điểm đi dây
như thế nào giữa Trung Quốc và Mỹ. Việc đó đã xuất hiện vào tháng 5 năm
2013 khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh giữa ông Tập Cận Bình và phía Hoa kỳ là tổng
thống Barack Obama tại Phòng Bầu dục ở Washington, và sau đó đến
chuyến đi của ông Trương Tấn Sang thì người ta rộ lên những lời đồn đoán về một
sự khác biệt nào đó, một sự khác biệt khá lớn. Nhưng chỉ đến gần
đây khi mà xảy ra sự kiệngiàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm
lược lãnh hải Việt nam thì tất cả những mâu thuẫn mới bộc lộ
ra và làm người ta thấy nhiều khác biệt về quan điểm.
Tôi cho rằng rất cần trong lúc này phải có một sự đồng
nguyên trong Bộ Chính trị, trên tinh thần dân tộc và cần phải có một Hội
nghị Diên Hồng để các vị tướng có thể nói với nhau về làm cách nào để bảo
vệ đất nước, bảo vệ cho chính gia đình và cho chính họ. Nhưng rất
đáng tiếc là cho tới nay họ vẫn lúng túng và tất cả dường như vẫn đang chờ đợi
nhau. Người ta nói rằng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có vẻ đưa ra những lời tuyên
bố thẳng thừng, kiên quyết như vậy, nhưng ông ta vẫn phải chờ Bộ Chính trị, Bộ Chính
trị lại chờ vào ông Nguyễn Tấn Dũng, tất cả vẫn đang chờ nhau trong
khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có vẻ đang chờ kết quả chuyến đi của
ông Phạm Bình Minh Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao,
còn ông Phạm Bình Minh chắc chắn phải chờ ông John Kerry là ngoại trưởng
Mỹ. Nhưng chuyến đi sắp tới của ông Phạm Bình Minh cũng không suôn sẻ lắm vì
ông Phạm Bình Minh lại còn phải chờ Bộ Chính trị, còn cho đến giờ
Bộ Chính trị Việt Namlại đang chờ những động thái của phía Mỹ.
Trong khi đó về phía Mỹ, Tổng thống
Obama lần đầu tiên trong hai nhiệm kỳ đã đưa ra lời tuyên bố cứng rắn với
TrungQuốc về chuyện khả năng Mỹ có thể đưa binh lực tới khu vực Biển Đông
để giải quyết những xung đột vũ trang có thể phát sinh tại khu vực và cũng là để
bảo đảm cho những lợi ích của người Mỹ về vấn đề tự do hàng hải, an ninh hàng hải
ở khu vực Biển Đông. Đó là một động thái khá kiên quyết về phía Mỹ
theo một lối mở mà như tư lệnh của quân đội Mỹ ở châu Á Thái
Bình Dương - ông Locklear - đã tuyên bố, đã bắn tiếng trên
Reuters là phía Mỹ có thể xây dựng một đối tác chiến lược với phía Việt Nam. Mà trở
thành đối tác chiến lược thì anh có thể hình dung nó cần thiết với Việt Nam
thế nào rồi, bởi vì trước đây ông Trương Tấn Sang chưa thể hy vọng việc trở
thành một đối tác chiến lược mà chỉ là đối tác toàn diện mà thôi. Đối tác chiến
lược ở đây phải nói tới là chiến lược về an ninh và về quốc phòng, đó chính là
điều mà người Việt Nam cần nhất hiện nay, hơn cả Hiệp định đối
tác kinh tế xuyên Thái bình dương (TTP). Chỉ có đối tác chiến lược đầy
đủ với Hoa kỳ mới có thể tạo ra một hàng rào chắn, một lá chắn đủ mạnh, đủ
xung lực, đủ hỏa lực để ngăn chặn hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Các
động thái gây hấn của Trung Quốc là không chỉ ở Biển Đông mà còn ở
biên giới phía Bắc, đó là điều cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Nếu như Việt
Nam không thể đạt được điều đó thì có thể nói là không có một điều gì,
không có một con người nào, không có tài sản của một quan chức nào ở Việt
Nam có thể an toàn.
*
TQT: Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam hiện nay dường
như có những mâu thuẫn trống đánh xuôi kèn thổi ngược: ông Nguyễn Tấn Dũng
chờ Bộ Chính trị, Bộ Chính trị lại chờ ông Nguyễn Tấn Dũng. Thế
thì phải chăng có một sự chờ một điều gì khác nữa, đó là chờ vào phương Bắc
?
PCD
: (cười) … Điều đó tôi chưa nói
ra. Đó chính là một sự chờ đợi ngấm ngầm. Nhưng có điều là tôi thực sự
không biết chắc là ai đang chờ đợi “phương Bắc”, và nếu có những người chờ
phương Bắc thì họ đang chờ đợi điều gì?Có lẽ nào họ chờ đợi một sự bạo động mới
như ở Đồng Nai, Bình dương hay một số nơi nào đó khác chăng? Đó chính
là một ẩn số, một câu hỏi rất khúc mắc mà người dân Việt Nam đang rất muốn
biết,nhưng cho tới nay chưa ai giải thích rõ ràng rằng lực lượng nào đủ mạnh,
tôi xin nhấn mạnh là “đủ mạnh”, đứng sau lưng giật dây bạo động ở
Bình Dương và ĐồngNai.
Nếu theo cách tuyên truyền giải thích của một số cơ
quan nhà nước về ba “đối tượng” mà người ta cho rằng có sự giật dây của Việt
Tân và cung cấp tiền bạc của Việt tân để tạo ra cuộc xuống đường của hàng chục
ngàn công nhân ở Bình Dươngvà Đồng Nai, thì điều đó quá
nguy hiểm đối với nhà nước. Bởi vì chỉ có ba con người mà có thể tạo ra một
cuộc bạo động lớn như vậy thì với ba chục hoặc ba trăm người của Việt Tân từ hải
ngoại mà về Việt Nam thì sẽ như thế nào? Lý lẽ đó không thuyết phục và dư
luận hiện nay vẫn còn đang rất hoài nghi rằng có một lực lượng nào đủ lớn, đủ
sâu để có thể chi phối một việc như vậy. Người ta cũng nghi ngờ rằng việc
đó có bàn tay của tình báo Hoa Nam Trung Quốc đã tạo ra những cơn
kích động sâu rộng có thể gây ra những mầm mống nội loạn ở Việt
Nam. Và nếu mầm mống nội loạn ấy đủ lớn thì chúng ta biết điều gì sẽ xảy
ra, đó là lúc mà thể chế chính trị Việt Nam phân hóa sâu sắc và có thể tan
rã bởi những động thái giật dây của tình báo phương Bắc.Lúc đó người phương Bắc
sẽ tràn vào phương Nam theo những kịch bản đã từng xảy ra không biết bao nhiêu
lần trong lịch sử.
*
TQT: Quay trở lại vấn đề Hội nghị Shangri-la, ông đánh giá thế
nào về những khác biệt trong hội nghị này? Quốc tế thì rất quan tâm, rất
lo ngại cho Việt Nam, ví dụ như thủ tướng Nhật, nhưng Việt Nam
thì lủng củng với nhau như vậy thì liệu chúng ta giải quyết vấn đề Biển Đông
như thế nào?
PCD: Tôi không ngạc nhiên về thái độ lủng củng hay là bất nhất, chần
chừ của phía Việt Nam, vì điều đó diễn ra từ lâu rồi, đặc biệt
là trong mối quan hệ “anh em môi răng” với phương Bắc. Nhưng điều quá khó
khăn với họ là thế này: hiện nay phương Bắc không còn là gây hấn thuần túy mà
đã là một mối họa xâm lăng, giàn khoan 981 là một trong những bước đi đầu
tiên của Trung Quốc để tạo ra một nền tảng trong chiến lược gây hấn khiêu
khích và xâm lấn dài hạn đối với Việt Nam trong tương lai không xa. Mối họa
đã rất cận kề.
Người ta cũng đã thấy là người Mỹ đưa tay
ra. Người Mỹ đưa tay ra vì lợi ích của họ ở khu vực Biển
Đông, đó là giao thương hàng hải và tất cả những gì mà họ coi là mặt quân sự có
thể chi phối được khu vực, không chỉ là khu vực Nam Á mà cả Đông Á nữa.
Trong lúc đó Việt Namcần phải tận dụng cơ hội này, khi mà ông Locklear Tư
lệnh quân đội Mỹ ở khu vực châu Á - Thái bình Dương ra
tuyên bố về khả năng Mỹ và Việt Nam có thể có quan hệ đối tác chiến lược. Tôi cho
rằng nhà nước Việt Nam phải bắt nhịp ngay cái tần số và cơ
hội đó. Nhưng Hội nghị Shangri-la đã chứng tỏ bản lĩnh quá yếu kém của
phía Việt Nam. Hoàn toàn không đạt yêu cầu khi đưa một
ông bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra để chỉ nói những câu văn vẻ
không có nghĩa gì hết, gây phản cảm rất lớn trong dư luận, cho thấy một
vị thế quá yếu kém của Việt Nam trên chính trường quốc tế. Điều đó
gây ra hậu quả là quốc tế họ coi thường Việt Nam, họ đánh giá Việt
Nam là chỉ có lời nói mà không có hành động, mà nếu như chỉ có lời nói mà
không có hành động thì khi xảy ra chiến tranh với Trung Quốc thì quân đội
ViệtNam sẽ đánh nhau như thế nào đây với một vị đại tướng nói không nên lời? Đó
là điều quá rõ.
Trong khi đó, phía Mỹ đã chủ động đưa ra đề xuất
thành lập một khối đồng minh quân sự Đông Á bao gồm người Mỹ, người Nhật Bản, người
Philippines và tất nhiên cả Việt Nam. Tôi cho đây là một cơ hội cuối cùng
của Việt Nam. Nếu nhà nước Việt nam không biết tận dụng cơ hội này thì
không biết đến bao giờ người Mỹ mới đưa ra cơ hội lần thứ hai, và chắc chắn
là trong năm nay sẽ chưa có một hiệp định TTP nào cả, cũng không có vũ khí
sát thương nào hết, và sẽ không có bất kỳ một ân hạn nào đối với Việt nam trong
việc giải quyết những lợi ích giữa hai quốc gia Mỹ – Việt.
*
TQT: Việt Nam chủ yếu là mua vũ khí của Nga để phòng thủ đất nước. Việt
Nam có hai đồng minh chiến lược không lồ là ông Trung Quốc và ông
Nga, nhưng vừa rồi khi mà xảy ra vấn đề Biển Đông thì ông Putin lại đứng
bên ông chủ tịch Tập Cận Bình. Vậy nhà báo PHẠM CHÍ DŨNG bình luận thế
nào về cái ông đồng minh chiến lược Nga ?
PCD: Tôi cho rằng ít nhất về vũ khí và khí tài quân sự Việt
Namnhập từ Nga thì chất lượng của vũ khí và khí tài quân sự đó đã không còn bảo
đảm nếu xảy ra một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Thực tế thì Việt
Nam nhập khẩu đến 90% vũ khí và khí tài quân sự từ Nga.Chẳng hạn đó
là các hệ xe tăng họ T, trước đây là T-34, rồi đến T-54, T-55, sau
này là T-72 đến T-90, cũng như một số máy bay SU hay là MIC, hay là
tên lửa…,nhưng tất cả những vũ khí như vậy về chất lượng không thể bằng Trung
Quốcđược. Trong khi đó người Trung Quốcnhập khẩu những vũ khí tối tân hơn
hẳn từ Nga, họ có những tàu ngầm rất lớn mà chất lượng quân sự cao hơn hẳn
những gì mà Nga bán cho Việt Nam. Như vậy hình ảnh mà Pu-tin đứng cạnh Tập Cận
Bình với một hợp đồng khí đốt lên tới hơn 400 tỷ USD trong dài hạn cho thấy chắc
chắn là giữa người Nga là ông Putin đã có một thỏa thuận, và thực sự họ là
một đồng minh trên một mặt trận đối trọng với người Mỹ. Việt Nam chỉ
là một mắt xích nhỏ trong tất cả những mối quan hệ này thôi.
Theo tính toán của Bắc Kinh và Moscow thì sự kết
hợp của hai lực lượng này có thể trở thành một siêu cường, và Bắc Kinh đặc
biệt mong muốn điều đó, vì Bắc Kinh cho tới giờ chỉ có thể coi là một
cường quốc chứ chưa thể gọi là một siêu cường. Nhưng một cường quốc
như Trung Quốcvẫn còn khá nhiều vấn đề bổ khuyết, nhất là vấn đề kinh
tế và nội chính, nên ông Tập Cận Bình và bộ sậu của ông ta chắc chắn là muốn
có một quan hệ sâu sắc hơn với Moscow, bất chấp cuộc chiến từng xảy ra giữa
hai quốc gia vào những năm 1960.
*
TQT: Nhìn lại vấn đề Việt Nam trong vòng cả tháng qua,điều gì
ông cảm thấy lo lắng nhất và điều gì ông thấy tin tưởng và lạc quan nhất ?
PCD: Điều lo lắng nhất cũng trở nên bình thường nhất, vì tôi không
ngạc nhiên về những gì đã xảy ra ở Việt Nam. Sự lo lắng nhất đến từ
những yếu kém của nhà nước Việt Nam mà chúng ta vẫn thường gọi là thái độ
nhu nhược. Bất kỳ khi nào trong lịch sử ViệtNam diễn ra hiểm họa ngoại xâm
thì gần như đều xảy ra những dao động trong nội bộ Việt Nam. Lần này
mới chỉ một giàn khoan 981 mà dường như mọi chuyện đã rối tung
lên, thì nếu như có thêm vài cáigiàn khoan nữa hoặc có thêm một ít động
thái quân sự xâm lược khiêu khích và gia tăng vũ trang từ phía Trung Quốc thì
không hiểu mọi chuyện sẽ thế nào? Đó là điều đáng lo lắng nhất, nhưng
theo tôi cũng trở nên bình thường vì chúng ta hoàn toàn không ngạc nhiên về tất
cả những gì đã diễn ra từ trước đến nay trong nội bộ Việt Nam.
Còn điều đáng lạc quan nhất thì thế này, chính ra
tôi đã nêu ra với anh TRẦN QUANG THÀNH trong vài bài phỏng vấn trước rằng người
Việt Nam chúng ta phải cám ơn Trung Quốc vì họ đã tạo ra sự kiện giàn
khoan 981, nhưng họ đã không tính toán kỹ, họ không nghĩ rằng giàn
khoan 981 mà đứng phía sau là toàn bộ Bắc Kinh đã tạo ra một sự
kích động lớn như thế, làm cho những người theo chủ thuyết ngả sang phương
Tây đã dứt khoát, quyết đoán hơn, và dường như đang có một làn sóng
chạy về phương Tây vì đó là lối thoát duy nhất. Đó chính là tín hiệu lạc
quan nhất, và tôi cho là đó cũng là lối thoát của dân tộc Việt
Nam, vì cho tới nay chúng ta cần phải xác định rằng ai là bạn và ai không
phải là bạn – là kẻ thù.
Từ trước tới giờ Trung Quốc được coi
là đối tác chiến lược lớn nhất của Việt Nam trong số hàng chục đối tác chiến
lược mà Việt Nam đã thiết lập, nhiều đến mức mà người ta cho rằng Việt
Nam đã bị lạm phát đối tác chiến lược. Vài năm trước khi xảy ra làn
sóng đối tác chiến lược của Việt Nam với các nước, đã có nhiều ý kiến
nêu rằng quá nhiều đối tác chiến lược thì khi xảy ra tình trạng khó khăn với Việt
Namthì như bị gây áp lực quân sự, chẳng hạn từ Trung Quốc, thì
các đối tác chiến lược khác sẽ không có trách nhiệm gì cả, họ xem đó là vấn
đề riêng tư của Việt Nammà thôi, tức sẽ không có một nguồn lực tập
trung để giải quyết vấn đề Việt Nam khi mà nguồn lực đó bị dàn trải quá
nhiều. Bây giờ hiện thực đó đang xảy ra sờ sờ trước mắt khi mà Trung Quốc gây
ra áp lực với Việt Nam, bởi trong những ngày đầu tiên Việt Nam hầu
như không được sự lên tiếng ủng hộ nào từ cộng đồng quốc tế. Họ thờ
ơ, thậm chí trên kênh CNN toàn là những người đại diện ngoại
giao của Trung Quốc phát biểu chứ không phải là đại diện ngoại giao của Việt
Nam. Mãi sau này đại diện ngoại giao của Việt Nam mới có cơ hội trên
CNN, nhưng đã quá muộn.
Đã đến lúc cần phải xem lại ai là thù, ai là bạn. Và
thay vì xác định Mỹ là kẻ thù số một theo truyền thống trước đây của lịch sử
chính trị Việt Nam thì hãy nên xem lại rằng kẻ thù đó còn ở quá
xa, và từ 40 năm qua kẻ thù số một đó chưa từng làm cái gì xấu
xa đối với Việt Nam. Ngược lại trong mười năm qua Việt Nam được lợi
quá nhiều về kinh tế khi xuất siêu 15-16 tỷ USD vào thị trường Mỹ, trong
khi nhập siêu 23-24 tỷ USD từ thị trường Trung Quốc. Vậy thì bất lợi nằm ở
đâu, lợi ích nằm ở chỗ nào? Ai xâm lược Việt Nam, ai không xâm lược Việt
Nam? Ai chìa tay ra đối với Việt Nam? Phải xem lại điều đó để thấy rằng
Hoa Kỳ và phương Tây là lối thoát không chỉ với giới chính khách Việt
Nam mà còn đối với cả dân tộc Việt Nam trong tương lai.
TQT: Xin cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng về cuộc hội luận hôm nay.
Bài phỏng vấn do nhà báo Trần Quang Thành gửi tới
trang Ba Sàm
No comments:
Post a Comment