Phạm
Quang Tuấn
15/06/2014
Trong yêu cầu bức thiết chống lại mọi âm mưu sâu hiểm
của Trung Nam Hải đang từng bước thò hẳn nanh vuốt chiếm biển đảo nước ta, hợp
pháp hóa tham vọng “đường lưỡi bò” gớm ghê của chúng, việc xem xét hậu quả của
Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 về mặt pháp lý quốc tế đã trở thành một tâm điểm
để giới học giả trong ngoài nước sôi nổi tham gia bàn luận. Đến nay, hầu như rất
ít người còn khăng khăng bênh vực tính vô hại của Công hàm ấy vì xét bề nào thì
đó cũng là một trong những cái bẫy do mình tự bày ra làm vướng chính chân mình
(nặng lời như ông Nguyễn Khắc Mai là một công hàm phản quốc, phản động), cần phải
chóng vánh gạt sang một bên để Nhà nước Việt Nam dám đường hoàng nối gót
Philippines kiện Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc.
Nhiều ý kiến phong phú góp bàn về cách hóa giải Công
hàm Phạm Văn Đồng đáng cho ta suy xét, như việc đề xuất với Quốc hội chính thức
ra biểu quyết phủ nhận nó (Nguyễn Khắc Mai), hoặc kêu gọi chính quyền mạnh dạn
thành lập chế độ mới để tránh khỏi ràng buộc pháp lý với chế độ miền Bắc trước
kia (Hà Sĩ Phu). Gần đây nhất là ý kiến của GS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt
đưa ra Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 của LHQ mà các ông
mới tìm thấy, cho phép một quốc gia kế tục (CHXHCNVN) có thể bác bỏ các hiệp ước
về lãnh thổ bất bình đẳng hoặc do sức ép mà quốc gia tiền nhiệm (VNDCCH) đã phải
thừa nhận với láng giềng của mình (xem
đây). Nhưng cũng có ý kiến quyết liệt hơn, chưa hẳn tin vào tính khả thi của
Công ước nói trên trong trường hợp CHXHCNVN và VNDCCH thực tế chỉ là một, không
khác nhau về bản chất, đòi hỏi phải thay đổi thể chế CHXHCNVN vốn đã lộ rõ quá
nhiều khuyết tật: tham nhũng, độc tài, dày đạp lên dân chúng, cướp bóc cho phe
nhóm, bần cùng hóa xã hội, đưa kinh tế xuống vực thẳm, nô lệ vào ngoại bang…
chuyển sang một thể chế thực sự dân chủ – giải Cộng –, theo đó sẽ “giải Trung
Quốc hóa” hữu hiệu mà Công hàm PVĐ là một khâu có mối liên hệ hữu cơ.
Song song với việc tìm biện pháp hóa giải Công hàm
Phạm Văn Đồng, lại cũng có những người tìm hiểu động cơ của tác giả hoặc tập thể
tác giả bức Công hàm này. GS Cao Huy Thuần ở Pháp thuộc trường phái tỏ ra thông
cảm với hoàn cảnh tạm gọi là “éo le” của người viết thuở bấy giờ: bị kẹp cứng
giữa hai đàn anh trong cùng phe XHCN, giữa thời buổi chiến tranh lạnh,
khi ông anh Liên Xô công bố văn bản gì thì ông em Việt Nam cũng phải nặn ra một
“bản sao” tương tự. Kể cũng đáng thông cảm thật. Nhưng như thế thì lập
trường dân tộc ở thời điểm những năm đó có còn được người cầm quyền nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa coi là chính yếu nữa không? Hay trước yêu cầu của sự thống
nhất một phe – phe XHCN nhằm đối trọng với “phe đế quốc” – và trước mục
tiêu phấn đấu cho “đại đồng thế giới” mà ai cũng mơ ước, quyền lợi quốc gia đã
bị nhìn nhận “nhẹ tựa lông hồng”? – “Bên ni biên giới là nhà / Bên
kia biên giới cũng là quê hương” (Tố Hữu)!!!
Trên tinh thần
phản biện để tìm ra chân lý nhằm dứt bỏ mọi sự lướng vướng trong nhận thức tư
tưởng, cũng là một cách thiết thực góp phần cứu nguy đất nước hôm nay, chúng
tôi xin trân trọng giới thiệu ý kiến trao đổi với GS Cao Huy Thuần của TS Phạm
Quang Tuấn.
Nguyễn
Huệ Chi
----------------------------------
Phạm
Quang Tuấn
Là một người quan tâm tới vấn đề Biển Đông và đã từng
lên tiếng trên báo chí ngoại quốc để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển
Đông, tôi kinh ngạc khi đọc bài biện hộ cho Công hàm Phạm Văn Đồng (PVĐ) của GS
Cao Huy Thuần (xem đây).
Kinh ngạc không phải vì những lời biện hộ trong bài.
Những lý lẽ tương tự đã từng được đưa ra rất nhiều bởi báo chí trong nước và những
dư luận viên trên mạng. Nhưng kinh ngạc vì chúng xuất phát từ một vị giáo sư của
một đại học Pháp.
Xin miễn bàn về khía cạnh pháp lý của Công hàm Phạm
Văn Đồng hay làm cách nào để hóa giải nó, vì đây là những vấn đề vô cùng rắc rối
và nhức nhối, cần thảo luận chi tiết ở nơi khác. Tôi chỉ xin bàn về những lý lẽ
GS Cao Huy Thuần dùng để giải thích và biện hộ cho động cơ hay ý định đằng sau
Công hàm này, nói rõ ra là để kêu gọi sự thông cảm cho Phạm Văn Đồng.
Về những
lý lẽ bào chữa cho Công hàm Phạm Văn Đồng
Ông Cao Huy Thuần viết: “Phải phân biệt cho rõ
hai vấn đề mà Trung Quốc muốn cột vào với nhau nhưng bối cảnh của năm 1958 về
luật biển buộc phải tách riêng ra: vấn đề hải phận và vấn đề chủ quyền. Vấn đề
hải phận là pháp lý. Vấn đề chủ quyền là chính trị. Tranh chấp không giải quyết
được tại Hội nghị Genève 1958 là tranh chấp trên vấn đề hải phận. Bác bỏ hay
tán thành tuyên bố của Trung Quốc là bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lý ấy,
một chuyện pháp lý nóng bỏng vào thời buổi ấy. Không phải vì bác bỏ hay tán
thành cái chuyện 12 hải lý là bắt buộc phải bao hàm việc bác bỏ hay tán thành
cái chuyện chủ quyền – chuyện này ở bên lề, hạ hồi phân giải“. Thật là một
cách “diễn nghĩa” khó hiểu! Nếu Trung Quốc muốn cột hai vấn đề 12 hải lý và
TS-HS vào với nhau thì trách nhiệm của chính phủ Việt Nam là phải tách hai cái
ra chứ tại sao lại lờ đi? Công hàm PVĐ viết “tán thành tuyên bố [của Trung Quốc]”
chứ đâu có viết là “tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về 12 hải lý, nhưng
không tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa”? Thậm chí
Công hàm cũng chẳng nói gì về hội nghị Genève 1958. Làm sao mà một tòa án quốc
tế có thể đem câu “nhưng không tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về Hoàng
Sa-Trường Sa” vào Công hàm này? Một nguyên thủ hay thủ tướng phải biết câu “bút
sa gà chết” và cũng phải có một chút cẩn thận tối thiểu chứ? Diễn giải một
câu viết tùy theo bối cảnh thời sự, lịch sử, văn hóa xã hội, v.v. là cách diễn
giải thích hợp cho một tác phẩm văn chương cổ như Truyện Kiều, nhưng
hoàn toàn không thích hợp cho một công hàm của một vị thủ tướng ở thế kỷ 20.
Ông Cao Huy Thuần biện hộ rằng vì Liên Xô đã tán đồng
tuyên bố của Trung Quốc, nên việc Phạm Văn Đồng cũng tán đồng điều đó có thể hiểu
được trong tình hình thế giới năm 1958. Ông Cao Huy Thuần đưa ra bằng cớ rằng
câu chữ, cách viết của công hàm Phạm Văn Đồng hầu như y hệt với công hàm của
Liên Xô: “Hãy so sánh ngữ văn này của Liên Xô với “công hàm Phạm Văn Đồng”:
chữ nào chữ nấy gần như bản chính với bản sao. Đây là một điểm quan trọng góp
phần vào việc giải thích bản văn của Hà Nội“.
Lối bênh vực đó thật phi lý. Khi một người hay một đảng
chính trị đã ở vị trí lãnh đạo một nước, và nhất là khi người hay đảng đó đã tự
chiếm cho mình độc quyền lãnh đạo nước đó, không cho ai khác được tranh giành,
thì không thể biện hộ rằng chỉ vì máy móc theo gương mẫu, tập quán XHCN, gương
mẫu, tập quán quốc tế hay bất cứ gương mẫu gì khác “như một bản sao“, mà
vô ý nhượng bộ lãnh thổ cho ngoại bang. Thủ tướng một nước đâu có phải là một cậu
học trò lười biếng sao chép bài của thầy, bạn?
Phạm Văn Đồng, và tập thể lãnh đạo VNDCCH thời 1958,
có phải là những Bambi (nai tơ) ngây thơ vô tội, nhìn đời qua cặp mắt kiếng mầu
hồng, nên bị lừa dối bởi những ảo tưởng không thực tế? Hay ông và những người đồng
đảng, kể cả lãnh đạo Hồ Chí Minh, là những nhà chính trị lão luyện, đã từng trải
qua nhiều chục năm tranh đấu gay go, vào sinh ra tử, đã từng không ngần ngại bắt
bớ, thủ tiêu những chính trị gia đồng bào không đồng ý kiến?
Khi Phạm Văn Đồng rập khuôn công hàm của Liên Xô,
ông có nghĩ tới sự khác biệt quan trọng: Liên Xô không có tranh chấp với Trung
Quốc về những đảo trong tuyên bố của Trung Quốc, còn Việt Nam thì có? Khi Phạm
Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” của Trung Cộng, thì ông có thêm
dòng chữ “trừ điều khoản về Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa)”? Không,
ông chỉ “ghi nhận và tán thành” “như một bản sao”! Khó có thể tưởng tượng người
nào – dù là một người bình thường hay một thẩm phán Tòa án Quốc tế –
chấp nhận việc một thủ tướng lại nhắm mắt sao chép như vậy về một vấn đề liên
quan đến chủ quyền lãnh thổ nước mình!
Ông Cao Huy Thuần viết: “Cho đến bây giờ, độc giả Việt Nam chỉ thấy thư của Phạm Văn Đồng đáp
lại tuyên bố của Chu Ân Lai mà chẳng thấy tuyên bố của Trung Quốc là thế nào,
tuy rằng đó là cái chìa khóa để mở cánh cửa đầu tiên”. Có vẻ như ông ám chỉ
rằng công chúng Việt nam chỉ trích Công hàm PVĐ chỉ vì họ chưa đọc bản tuyên bố
của Tàu. Không hiểu ông Cao Huy Thuần căn cứ vào đâu mà viết vậy. Thực ra, những
người quan tâm về hậu quả Công hàm PCĐ nhiều nhất chính là những người đã đọc
tuyên bố của Tàu. Khi tôi trao đổi trên facebook, có nhiều người còn bào chữa
cho Công hàm, nhưng đến khi tôi cho họ coi nguyên văn bản tuyên bố của Tàu thì
tất cả đều lặng người vì đau đớn.
Càng đọc tuyên bố của Trung Quốc càng thấy rõ sự
nguy hại của Công hàm PVĐ, vì tuyên bố đó nói rõ ràng là hải phận 12 hải lý “áp
dụng cho Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa)”. Mà nào có ai ép PVĐ phải “ghi
nhận và tán thành” cái tuyên bố đó đâu? Ông chỉ cần viết rằng Việt Nam sẽ
tôn trọng hải phận 12 hải lý quanh các bờ biển thuộc về Trung Quốc là đủ chứng
tỏ sự đoàn kết và ủng hộ nước Tàu rồi, tại sao phải viết thêm câu “ghi nhận và
tán thành” đó?
Ông Cao Huy Thuần viết: “Một chính quyền [của thủ
tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu] chưa hoàn toàn độc lập đối với Pháp mà
còn cương quyết [bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa] như thế, lẽ nào, thực
lòng, một chính quyền đã hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền như
chính quyền Phạm Văn Đồng, lại có thể từ khước chủ quyền một cách dễ dàng như vậy
trong một bức thư?“. Lý luận như vậy theo tôi là lý luận ngược, đặt cái cày
trước con trâu. Chúng ta không thể đặt mệnh đề “chính quyền Phạm Văn Đồng đã hy
sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền” làm tiền đề, vì đó chỉ là niềm tin
của tác giả chứ không phải là một sự thật khách quan.
Sự thật khách quan là ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận
và tán thành” một bản tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa-Trường
Sa. Sự thật khách quan là chính quyền Phạm Văn Đồng đã hy sinh rất nhiều xương
máu của dân Việt Nam, nhưng chưa chắc hành động hy sinh xương máu đồng bào đó
đã là với mục đích bảo vệ độc lập, chủ quyền. Và dù chính quyền Phạm Văn Đồng
thực sự có mục đích bảo vệ độc lập, chủ quyền, thì cũng chưa chắc là họ đã
không có một mục đích khác họ coi là cao cả hơn, chẳng hạn như mục đích thế giới
đại đồng dưới chủ nghĩa cộng sản và sự lãnh đạo của Liên Xô và Trung Quốc, mà họ
đã nhắc đi nhắc lại cả ngàn lần. Và cũng đừng quên là Công hàm không phải là
hành động duy nhất, mà còn đi đôi với nhiều hành động khác, đã bị Tàu đem ra
làm bằng chứng cho sự từ khước chủ quyền.
Lại càng thông thể chấp nhận tiền đề, dù chỉ hiểu ngầm,
rằng thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu không yêu nước, không quan tâm chủ
quyền các đảo bằng thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng, để từ đó suy ra rằng Trần
Văn Hữu bảo vệ chủ quyền nên Phạm Văn Đồng, người không thể thua kém Trần Văn Hữu,
không thể từ bỏ chủ quyền. Đó chỉ là suy diễn, từ thành kiến chính trị mà suy
ra sự việc: đáng lẽ dùng hành động của hai người (Trần Văn Hữu và Phạm Văn Đồng)
để đánh giá và so sánh họ, thì lại khởi sự từ sự đánh giá có sẵn trong đầu để
giải thích hành động. Kiểu “lý luận” đó cũng như của một kẻ đang yêu mù quáng
và tôn thờ người yêu nên thấy nàng làm gì cũng bào chữa, khen ngợi, dù là chuyện
xấu xa. Đáng lẽ ông Cao Huy Thuần phải hỏi: một người (Trần Văn Hữu) tuyên bố
chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam trước quốc tế, một người (Phạm Văn Đồng)
không những phớt lờ khi kẻ tranh giành chủ quyền công khai tuyên bố rõ ràng chữ
Hoàng Sa -Trường Sa, mà còn “ghi nhận và tán thành”, thì ai quan tâm tới chủ
quyền hơn ai?
Vấn đề
cơ bản của Công hàm Phạm Văn Đồng
Ông Cao Huy Thuần, cũng như nhiều người khác, cho rằng
Công hàm PVĐ không có tính cách pháp lý, không phải là một hiệp định phân định
biên giới hay nhường đảo, và do đó không đáng sợ. Nhưng cái tai hại của nó không ở chỗ đó. Nó nguy hiểm ở chỗ là nó có thể
được coi là chứng cớ rằng từ trước đó, chính quyền VNDCCH vẫn công nhận Hoàng
Sa-Trường Sa đương nhiên là thuộc về Trung Quốc. Tức là, nó không chứng tỏ rằng
Việt Nam đã “nhường chủ quyền” cho Trung Quốc, nhưng nó chứng tỏ rằng VNDCCH
công nhận rằng chủ quyền từ xưa vẫn thuộc về Trung Quốc một cách đương nhiên,
“không thể chối cãi”, và Việt Nam chẳng có gì để mà nhường. Nó không phải là tờ
giấy cho con mình làm con nuôi người khác, mà là giấy chứng nhận rằng đứa trẻ
không hề là con mình. Cách hiểu này càng khó bác bỏ khi đi đôi với những hành động
khác (bản đồ, sách giáo khoa, sự im lặng về trận hải chiến Hoàng Sa và về vấn đề
chủ quyền các đảo nói chung).
Giữa hai cách hiểu Công hàm PVĐ: “vô ý rập khuôn
Liên Xô nên đánh rớt chủ quyền” và “đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc từ
trước”, chỉ có thể chọn cách thứ nhất nếu người viết và ký là một em bé thơ
ngây chứ không phải là một nhà chính trị lão luyện, đứng đầu một chính phủ.
Nhưng cũng có thể là khi giao dịch với đàn anh phương Bắc thì các lãnh đạo
VNDCCH trở thành ngây thơ như em bé? Khả năng đó không thể hoàn toàn loại bỏ,
vì đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ VNDCCH chịu ơn người anh Trung Quốc quá,
quá nặng.
Tóm lại, những lý lẽ ông Cao Huy Thuần đưa ra để bào
chữa cho Phạm Văn Đồng không đóng góp được gì cho cuộc tranh đấu vô cùng gay go
để tháo gỡ hậu quả tai hại của Công hàm này. Công hàm Phạm Văn Đồng không phải
là bản án tử hình, nhưng ít ra nó cũng là một lưỡi gươm Damocles đủ sắc để chặt
cụt cánh tay pháp lý của Việt Nam, khiến nước này sẽ không dám ra tòa để đòi
phân xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa dù là chính quyền muốn làm vậy (mà việc
này thì chưa chắc, vì còn 16 chữ vàng gì đó). Công hàm PVĐ đã khiến khả năng
thua kiện trở thành đáng để ý (non-negligible), mà nếu thua là mất tất cả, kể cả
những đảo Trường Sa còn đang chiếm hữu, còn nếu thắng thì Tàu hầu như chắc chắn
cũng không giao trả đảo nào. Người khôn ngoan không bao giờ đi vào một vụ kiện
như vậy (hy vọng là chính phủ hiện thời khôn ngoan hơn chính phủ Phạm Văn Đồng).
Cuộc tranh đấu chủ quyền do đó sẽ chỉ diễn ra trên
các mặt trận học thuật, công luận, ngoại giao, chính trị quốc tế. Tiếc thay,
trên những mặt trận đó thì Công hàm Phạm Văn Đồng lại càng nguy hại hơn là
trong địa hạt pháp lý! Rốt cuộc, những lý lẽ của GS Cao Huy Thuần có lẽ chỉ để
“lưu hành nội bộ”, may ra an ủi được những người “phò đảng tới cùng” (hay theo
tiếng Anh là chúng chỉ dùng vào mục tiêu “preaching to the converted”).
P.Q.T.
Tác giả gửi BVN
-----------------------------------
No comments:
Post a Comment