Cao
Huy Thuần
Cập nhật lần cuối 12/06/2014
«CÔNG
HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG»
Góp
ý về việc giải thích
Cao
Huy Thuần
Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Ngoại trưởng Chu
Ân Lai ngày 14-9-1958 tạo lý lẽ pháp lý cho phía Trung Quốc để quả quyết rằng
Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Bắc Kinh trên Hoàng Sa và Trường Sa. Lý lẽ
pháp lý căn bản để Việt Nam bác bỏ luận điệu của Trung Quốc là : nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có tư cách pháp lý để nhường cho Trung Quốc một quyền
mà mình không có ở thời điểm 1958. Ở thời điểm ấy, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục lịch sử chiếm giữ từ
bao đời và hành xử chủ quyền toàn vẹn trên hai đảo ấy. Lý lẽ rất xác đáng này,
nhiều người đã nói rồi, tôi không nhắc lại ở đây nữa. Ở đây, tôi chỉ góp thêm
chút ít ý về những vấn đề phụ, để bổ túc cho lý lẽ chính vừa nói ở trên.
Trước khi đi vào những chi tiết lịch sử và những lập
luận pháp lý rườm rà, tôi bắt buộc phải làm cái chuyện rườm rà đầu tiên là đăng
lại nguyên văn bức thư mà ngày nay người ta thường gọi là « công hàm Phạm
Văn Đồng ». Bức thư rất đơn giản, nhưng chính vì đơn giản mà phải giải
thích, hơn thua nhau trong vụ kiện là tùy thuộc lớn vào việc giải thích này.
Tôi không dám làm công việc rất khó khăn này của luật sư chuyên nghiệp, đòi hỏi
một kiến thức về học thuyết và án lệ quốc tế thấu đáo hơn, cập nhật hơn, chỉ
xin nhắc lại là cốt góp thêm chút ý mà thôi. Góp thêm chút ý mà cũng đã khó
khăn rồi, vì phía Trung Quốc còn đưa ra thêm nhiều bằng chứng khác, nào bản đồ
của Bộ Quốc Phòng, của Phủ Thủ Tướng, nào báo Nhân Dân, nào sách giáo khoa, để
làm vững chắc hơn nữa lý luận của họ. Mong rằng chính quyền Việt Nam thu thập
được thêm bằng chứng để phản bác. Chỉ có chính quyền mới làm được việc này
thôi. Không có trong tay những bằng chứng khác, lý luận duy nhất trên một
« công hàm » là không đủ tý nào. Nhưng biết làm sao !
Đây là nguyên văn bức thư, và vấn đề pháp lý đặt ra
là giải thích bức thư :
« Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý
rõ :
Chính phủ nước Việt-nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và
tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung-Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng
quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời
chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958 »
I. Theo ngôn ngữ của luật quốc tế, bức thư đó được gọi là một « hành
vi đơn phương », tiếng Pháp là một « acte unilatéral ».
Vấn đề pháp lý tổng quát đầu tiên đặt ra là : một hành vi đơn phương có
giá trị pháp lý quốc tế không ? Có tính cách ràng buộc không ? Có phải
là một nguồn gốc của luật quốc tế không ?
Điều 38 của Quy chế Tòa Án Tài phán quốc tế ghi rõ
ba nguồn gốc : hiệp ước quốc tế, tập tục quốc tế, và những nguyên tắc luật
pháp tổng quát được các nước văn minh chấp nhận. Ngoài ba nguồn gốc chính ấy,
còn có thêm một nguồn gốc bổ túc thứ tư : các quyết định tài phán và học
thuyết của các luật gia được công nhận là có thẩm quyền. Vậy, những « hành
vi đơn phương » thì sao ? Điều 38 không nói, nhưng trong thực tế của
đời sống quốc tế, các hành vi này càng ngày càng nhiều, càng đa dạng, cho nên rốt
cuộc, án lệ cũng như học thuyết đều công nhận giá trị pháp lý. Trong 5 loại
« hành vi đơn phương » được liệt kê, lời hứa là loại liên quan đến vấn
đề đặt ra ở đây. Lời hứa là một cam kết đơn phương có hiệu lực ràng buộc tác giả
của nó. Như vậy, đứng trên mặt lý thuyết tổng quát, phía Trung Quốc có lý do để
buộc ta phải công nhận tính cách ràng buộc của « công hàm Phạm Văn Đồng ».
Ta phản ứng thế nào ?
Trước hết, học thuyết buộc phải hiểu chữ « lời
hứa » một cách hạn chế, phải siết chặt từ ấy một cách chính xác 1.
Nghĩa là : phải định nghĩa chính xác thế nào là một lời hứa có giá trị
pháp lý. Thế nào ? Học thuyết trả lời : đó phải là một lời hứa xuất
phát từ một ý muốn tạo ra hậu quả pháp lý, chứ không phải chỉ là một lời tuyên
bố hàm chứa một ý định chính trị 2. Làm
sao phân biệt thế nào là « ý muốn tạo ra luật », thế nào là không phải ?
Không thể có tiêu chuẩn tổng quát, mỗi hành vi đơn phương phải xét riêng từng
trường hợp để giải thích. Và việc giải thích này tuân theo những nguyên tắc được
áp dụng cho việc giải thích các hiệp ước, trong đó hai nguyên tắc chính
là : phải thực lòng (bonne foi) và phải chú ý đến đối tượng
và mục đích của hiệp ước. Thực lòng, nghĩa là phải tìm xem hai bên ký hiệp ước
muốn nói gì thực sự. Đây là yếu tố tâm lý và đạo đức khó tìm vì nằm trong nội
tâm. Cho nên phải làm sáng tỏ ra bằng cách tìm hiểu đối tượng và mục đích,
nghĩa là những yếu tố bên ngoài dễ thấy hơn. Điều 31 và 32 của Công ước Vienne
về việc giải thích hiệp ước nói rõ như thế : « Hiệp ước phải được
giải thích theo thực lòng với nghĩa thông thường mà các từ trong đó thường được
hiểu, và trong bối cảnh và ánh sáng của đối tượng và mục đích của hiệp ước » 3. Nhiều
án lệ đã căn cứ trên nguyên tắc này.
Áp dụng nguyên tắc trên vào việc giải thích các hành
vi đơn phương, học thuyết nhấn mạnh : phải tìm ý định của tác giả lời hứa,
hơn thế nữa, phải đặt ưu tiên trên giải thích ít có hại nhất cho tác giả ấy 4.
Đó là nguyên tắc tổng quát. Còn về phương pháp giải
thích, học thuyết cũng như án lệ đều nhấn mạnh trên sự cần thiết phải xét kỹ bối
cảnh, ngữ cảnh, cho rằng đó là cách hiệu nghiệm nhất để tìm ra ý định thực sự 5. Án
lệ đi rất xa trong phương pháp tìm kiếm này, đề nghị : 1. phải căn cứ trên
toàn câu để giải thích một chữ trong đó ; 2. phải căn cứ trên nhiều đoạn để
giải thích một điều khoản ; 3. phải căn cứ trên một phần của hiệp ước
trong đó có điều khoản phải giải thích ; 4. phải căn cứ trên toàn thể hiệp
ước ; 5. phải căn cứ trên lời mở đầu ; 6. phải căn cứ trên một loạt
hiệp ước tùy thuộc lẫn nhau. Kể rườm rà như vậy để thấy rằng bối cảnh, ngữ cảnh
là vô cùng cần thiết để tìm hiểu ý định thực sự, dù là để giải thích hiệp ước
hay là để giải thích một hành vi đơn phương. Nhiều lần, án lệ của Tòa án Tài
phán quốc tế thường trực, tiền thân của Tòa án Tài phán quốc tế hiện nay, đã
chú trọng đến hậu trường, nghĩa là bối cảnh đằng sau của việc ký kết hiệp ước,
về mặt pháp lý, chính trị, xã hội, đặt hiệp ước vào không khí của thuở soạn thảo,
để nắm bắt thấu đáo hơn ý tưởng đầu tiên và khám phá ra những hoàn cảnh thực tế
trong đó ý tưởng được bày tỏ 6.
Tòa án Tài phán quốc tế hiện tại cũng lấy cùng một
thái độ như vậy. Hậu ý của hai bên ký kết hiệp ước hoặc những quan tâm chính trị
của họ lắm khi cũng khác với mục đích nêu ra trên giấy tờ, nhất là khi hiệp ước
có nội dung chính trị 7.
II. Vậy thì, áp dụng những quy tắc trên, hãy đặt « công hàm Phạm Văn Đồng »
vào ngữ cảnh của bức thư và bối cảnh chính trị và lịch sử khi thư được gửi đi để
giải thích mục đích và ý định thực sự của tác giả.
Trước hết là bối cảnh. Cho đến bây giờ, độc giả Việt
Nam chỉ thấy thư của Phạm Văn Đồng đáp lại tuyên bố của Chu Ân Lai mà chẳng thấy
tuyên bố của Trung Quốc là thế nào, tuy rằng đó là cái chìa khóa để mở cánh cửa
đầu tiên. Vậy, xin bắt đầu nói đến bối cảnh của tuyên bố ấy, về mặt pháp lý rồi
về mặt chính trị, quân sự.
Về mặt pháp lý, cho đến khi thành lập Cộng Hòa năm
1911, Trung Hoa không có nhận định gì rõ ràng về vấn đề hải phận cũng như hải
lý. Bắt đầu quan tâm thực sự đến vấn đề từ 1912, lập trường chính thức của
Trung Hoa Dân Quốc vẫn là 3 hải lý. Phái đoàn Trung Hoa đề nghị 3 hải lý tại Hội
nghị Hague về san định luật quốc tế năm 1930. Như ai có chút kiến thức về luật
biển đều biết, ấn định hải phận là vấn đề nóng bỏng của luật quốc tế sau khi
các nước trong Thế giới thứ ba bành trướng ảnh hưởng và xác nhận tư cách độc lập
của mình. Nhiều nước, nhất là ở châu Mỹ La tinh, nới độ rộng của hải phận (tính
từ bờ) một cách vô độ, có khi đến cả 200 hải lý. Theo chiều hướng đó, phái đoàn
Trung Hoa Dân Quốc, trong buổi họp thứ 308 của Ủy Ban Luật quốc tế của LHQ, đòi
nới độ rộng của hải phận ra 12 hải lý. Trớ trêu thay, đề nghị đó trái ngược với
lập trường của Mỹ (3 hải lý) mà Trung Hoa là đồng minh, lại trùng hợp với lập
trưởng của Liên Xô (12 hải lý) mà Trung Hoa là thù nghịch. Bị anh cả nhắc nhở,
phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, trong buổi họp thứ 361 (1956) của Ủy Ban vừa nói,
đề nghị một tu chính mềm dẻo về điều 3 của công ước đang soạn thảo :
« 1. Hải phận có thể do mỗi quốc gia cận bờ
biển ấn định phù hợp với nhu cầu kinh tế và chiến lược trong giới hạn từ 3 đến
12 hải lý ; điều này phải được các quốc gia chủ trương một hải phận hẹp
hơn chấp nhận.
2. Trong trường hợp bất đồng ý kiến, vấn đề sẽ được
đưa ra trọng tài ».
Tu chính đó bị bác bỏ trong phiên họp lần thứ 363
(8-6-1956) với một tỷ số phiếu chống rất cao : 9 chống, 3 thuận, 2 không bỏ
phiếu.
Vậy là trong lần họp năm 1956, vấn đề hải lý không
được giải quyết. Ủy Ban kết luận một cách lừng khừng : « Luật quốc
tế không cho phép nới rộng hải phận quá 12 hải lý ».
Hai năm sau, tại Hội nghị Genève về luật biển, họp từ
tháng 2 đến tháng 4 năm 1958, phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc không đưa ra một đề
nghị nào nữa về hải phận. Trung Quốc lục địa không được mời tham dự, nhưng theo
dõi rất kỹ. Bằng chứng là chỉ vài tháng sau, Bắc Kinh lấy một thái độ dứt
khoát, trái ngược với Đài Loan.
Rườm rà như trên là để nhấn mạnh bối cảnh lịch sử
quan trọng của năm 1958. Trước đó, ngay cả Trung Quốc cộng sản cũng không có lập
trường rõ ràng về hải lý. Một quyển sách giáo khoa về hình luật xuất bản năm
1957 hãy còn nói một cách tổng quát rằng độ rộng của hải phận có thể là 3 hoặc
12 hải lý. Mãi cho đến đầu 1958, các tác giả Trung Quốc mới bắt đầu hoài nghi về
sự khôn ngoan của quan điểm 3 hải lý chật hẹp. Chỉ bắt đầu từ đó, họ mới chỉ
trích kịch liệt lập trường của Mỹ và Anh mà họ cho là « hoàn toàn vô căn cứ ».
Nhưng đó là các bài viết của giới luật gia. Chính quyền Trung Quốc chưa có lập
trường chính thức lúc Hội nghị Genève kết thúc.
Năm tháng sau, ngày 23 tháng 8 năm 1958, Trung Quốc
thình lình mở một trận pháo kích dữ dội, với yểm trợ của không quân và hải
quân, vào đảo Kim Môn do Đài Loan chiếm giữ, ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Mỹ
trợ giúp hậu cần cho đồng minh bằng cách hộ tống các tàu tiếp tế của Đài Loan
cho đến giới hạn 3 hải lý ngoài khơi Kim Môn. Ngày 4-9-1958, đài Bắc Kinh loan
báo một « Tuyên Bố về hải phận Trung Quốc » nguyên văn như
sau, chỉ trích những đoạn có liên quan đến vấn đề và dịch từ tiếng Anh :
« 1. Độ rộng của hải phận của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả lãnh thổ
của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, gồm lục địa Trung Hoa và đảo cận bờ biển
của lục địa, cũng như cho Đài Loan và các đảo bao quanh, quần đảo Bành Hồ, quần
đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và tất cả các
đảo khác thuộc về Trung Hoa mà đại dương chia cách khỏi lục địa và các đảo cận
bờ biển của lục địa.
4 § 2. Vùng Đài Loan và Bành Hồ hãy còn bị Mỹ chiếm
giữ bằng vũ lực. Đó là vi phạm bất hợp pháp sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan, Bành Hồ và những vùng khác như thế
sẽ được thu hồi lại, và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền thu
hồi những vùng ấy bằng mọi biện pháp thích hợp vào thời điểm thích hợp. Đây là
nội bộ của Trung Quốc, không can thiệp nào ở bên ngoài được dung thứ ».
Bản « Tuyên Bố » thâu trọn gói, đặt tất cả
các đảo do Đài Loan chiếm giữ và Hoàng Sa, Trường Sa vào hải phận Trung Quốc. Mỹ
bác bỏ việc gia tăng hải phận của Bắc Kinh, cho đó là « âm mưu che giấu những
mục tiêu xâm lược ». Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ nhắc lại lập trường
cố hữu của Mỹ, « đã có từ thời tổng thống Jefferson, và lập trường ấy là 3
hải lý ». Ngày 7-9-1958, hải quân Mỹ tiếp tục hộ tống như thế các tàu tiếp
tế của Đài Loan. Bắc Kinh cảnh cáo nghiêm khắc : « một hành động như
vậy, xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, là nguy hiểm ». Ngày 6-10, bộ trướng
quốc phòng Bành Đức Hoài ra một công bố cho « đồng bào Đài Loan »,
cho biết Trung Quốc sẽ ngưng nã pháo trong một thời gian 7 ngày, với điều kiện
Mỹ chấm dứt hộ tống tàu tiếp tế đến Kim Môn. Ngày 13-10, Trung Quốc gia hạn việc
ngưng pháo kích thêm 2 tuần nữa. Ngày 20-10, hôm trước khi ngoại trưởng Mỹ
Foster Dulles viếng thăm Đài Bắc, Trung Quốc lại nã pháo, viện cớ Đài Loan cho
phép hải quân Mỹ hộ tống vào « vùng biển » của Kim Môn. Sau đó, ngày
25-10, Bắc Kinh tuyên bố « ngưng chiến vào ngày chẵn ». Khủng hoảng dần
dần kết thúc 8.
Cần nói thêm lý lẽ pháp lý mà Mỹ đã viện dẫn để bác
bỏ « tuyên bố » của Trung Quốc, không phải vì có gì mới, mà là để thấy
rằng các phản ứng tiếp theo quyết định của Bắc Kinh đều liên quan đến vấn đề 12
hải lý là chủ yếu. Trong một bài diễn văn đọc trước Hiệp hội luật sư ngày
20-11-1958, Phụ tá cố vấn pháp lý của Viễn Đông sự vụ Bộ Ngoại giao, ông
Maurer, nói : « Huống nữa, Hoa Kỳ chủ trương rằng luật quốc tế chỉ
thừa nhận giới hạn 3 hải lý; một quốc gia không thể bằng hành động đơn phương,
quyết định đâu là sở hữu chung của tất cả mọi quốc gia ; điều đó lại còn
vi phạm nguyên tắc đã được quốc tế công nhận về tự do lưu thông trên biển. Quan
điểm của Hoa Kỳ đặt cơ sở trên báo cáo của Ủy Ban luật quốc tế của LHQ, báo cáo
ấy nói rằng ‘luật quốc tế không đòi hỏi các quốc gia phải nhận một giới hạn hải
phận vượt quá 3 hải lý’ » 9.
Cũng vậy, tiếp theo bác bỏ của Mỹ là bác bỏ của Bộ
Ngoại giao Anh, cũng liên quan đến con số 12, chỉ sau Mỹ một ngày, ngày
6-9-1958. Xin nhắc lại một lần nữa : vấn đề nóng bỏng lúc đó là vấn đề 12
hải lý.
Phe tư bản phản ứng đi, tất nhiên phe cộng sản phản ứng
lại. Như một tiếng dội. Như một luật chơi của chiến tranh lạnh. Và cũng trên vấn
đề 12 hải lý. Liên Xô tức tốc gửi một công hàm đến Bắc Kinh, tuyên bố « hoàn
toàn tôn trọng quyết định của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa »
và « đã chỉ thị cho các cơ quan liên hệ của Liên Xô triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa » 10.
Hãy so sánh ngữ văn này của Liên Xô với « công hàm Phạm Văn Đồng » :
chữ nào chữ nấy gần như bản chính với bản sao. Đây là một điểm quan trọng góp
phần vào việc giải thích bản văn của Hà Nội.
Tất cả những chi tiết rườm rà kể ra ở trên là cốt
đưa đến mấy nhận xét sau :
1. Phải phân biệt cho rõ hai vấn đề mà Trung Quốc muốn
cột vào với nhau nhưng bối cảnh của năm 1958 về luật biển buộc phải tách riêng
ra : vấn đề hải phận và vấn đề chủ quyền. Vấn đề hải phận là pháp lý. Vấn
đề chủ quyền là chính trị. Tranh chấp không giải quyết được tại Hội nghị Genève
1958 là tranh chấp trên vấn đề hải phận. Bác bỏ hay tán thành tuyên bố của
Trung Quốc là bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lý ấy, một chuyện pháp lý
nóng bỏng vào thời buổi ấy. Không phải vì bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải
lý là bắt buộc phải bao hàm việc bác bỏ hay tán thành cái chuyện chủ quyền --
chuyện này ở bên lề, hạ hồi phân giải. Nguyên tắc giải thích một cách hạn chế,
chặt chẽ, buộc phải gạt cái gì thừa thãi ra, cái thừa thãi ở đây là chủ quyền.
2. Nguyên tắc thực lòng cũng bắt buộc như vậy. Cái
chuyện tranh chấp chủ quyền đã xảy ra từ 1909 về Hoàng Sa và từ những năm 1930 về
Trường Sa. Sau thế chiến 1945, hễ có chính quyền là chính quyền nào ở Việt Nam
cũng đều khẳng định hai quần đảo ấy là thuộc chủ quyền Việt Nam. Thủ tướng Trần
Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam thời Bảo Đại chẳng hạn đã long trọng tuyên bố như
thế năm 1951 tại Hội nghị San Francisco11. Một
chính quyền chưa hoàn toàn độc lập đối với Pháp mà còn cương quyết như thế, lẽ
nào, thực lòng, một chính quyền đã hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền
như chính quyền Phạm Văn Đồng, lại có thể từ khước chủ quyền một cách dễ dàng
như vậy trong một bức thư ? Cả hai phía, Việt Nam và Trung Quốc, đều coi
lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, làm sao, với thực lòng, có thể nghĩ
rằng ý định thực sự của ông Phạm Văn Đồng là nhường đảo cho Trung Quốc ? Với
thực lòng, làm sao phía Trung Quốc có thể đọc bức thư mà nghĩ rằng thế là xong,
mọi tranh chấp chủ quyền gay go từ hơn một thế kỷ đã xóa sạch trong mấy hàng chữ
của một bức thư ?
3. Thêm nữa, mới đây, phía Việt Nam viện dẫn Bị Vong
Lục của Trung Quốc (12-5-1988) trong đó, sau khi lặp đi lặp lại luận điệu
« Trung Quốc có đầy đủ tài liệu chứng minh quần đảo Tây Sa và Nam Sa từ
xưa đến nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc », đã nói thêm rằng « với
nguyên tắc thông qua hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, đã tỏ ý sau
này có thể đàm phán ». Câu ấy là của chính miệng Đặng Tiểu Bình nói ra
với bí thư thứ nhất Lê Duẩn khi ông Lê Duẩn thăm viếng Bắc Kinh ngày 14 tháng 9
năm 1975. Phía Việt Nam nói rõ : năm 1958, Đặng Tiểu Bình là bí thư Đảng Cộng
sản Trung Quốc, còn to hơn cả Chu Ân Lai, biết rõ sự việc liên hệ, vậy mà còn
xác nhận « bất đồng » và « đàm phán », thế thì, với thực
lòng, sao chính quyền Trung Quốc bây giờ lại đọc ngược bức thư Phạm Văn Đồng
theo nghĩa là không còn vấn đề chủ quyền gì nữa để bàn cãi ? 12.
Thực lòng ở đâu ?
4. Thực lòng ở về phía Việt Nam. Bởi vì ý định thực
sự của bức thư lại còn rõ ràng hơn nữa khi đặt vào hai bối cảnh lịch sử đặc biệt :
bối cảnh của chiến tranh lạnh nói chung và bối cảnh pháo kích ở Kim Môn nói
riêng.
Về chiến tranh lạnh, việc ủng hộ lập trường của Liên
Xô hay Trung Quốc khi lập trường này chống lại lập trường của khối « thế
giới tự do » dưới sự lãnh đạo của Mỹ là một thái độ chính trị quá thông
thường trong suốt thời gian lịch sử ấy. Phía Mỹ đã cứng rắn giữ nguyên lập trường
3 hải lý (ngay cả Đài Loan cũng không dám làm trái ý) thì phía Liên Xô hầu như
đương nhiên hỗ trợ Trung Quốc trong lập trường 12 hải lý. Chính yếu, đây là một
ủng hộ chính trị. Sự việc thư Phạm Văn Đồng lặp lại nguyên văn công hàm của
Liên Xô chứng tỏ điều đó. Hai bức công hàm phải được hiểu trong cùng một tinh
thần ấy.
Huống hồ, bối cảnh chính trị ấy lại càng nổi bật hơn
nữa với việc pháo kích Kim Môn. Miền Bắc lúc ấy đang sợ Mỹ can thiệp. Mà chiến
hạm Mỹ công khai vượt qua hải phận 12 hải lý để tiến vào vùng biển chỉ cách Kim
Môn 3 hải lý. Bênh vực lập trường 12 hải lý của Trung Quốc là chuyện quá dễ hiểu
giữa hai « đồng chí ». Miền Bắc cũng không muốn hạm đội Mỹ ở Thái
Bình Dương xé rào 12 hải lý để tiến vào sát bờ biển miền Nam như tiến vào sát
Kim Môn.
Bối cảnh quân sự và chính trị này, ngay cả các tác
giả người Hoa cũng đều nêu rõ. Chỉ trích một ví dụ thôi : « Trung
Hoa cộng sản ra một tuyên bố chính thức về hải phận lúc khủng hoảng 1958 trên
Kim Môn và Mã Tổ lên đến cao độ ; như thế rõ ràng rằng những biến cố ấy đã
phát động ảnh hưởng trên bản tuyên bố » 13.
Ai cũng thấy, lúc đó Mỹ là kẻ thù chung, làm sao, với thực lòng, không thấy rằng
văn thư của Hà Nội nhắm việc chống kẻ thù chung ? Trong bối cảnh quân sự
và chính trị của năm 1958, chống Mỹ tức là ủng hộ 12 hải lý. Đông Đức ủng hộ,
Rumania ủng hộ tiếp theo Liên Xô 14.
Công hàm Phạm Văn Đồng cũng ủng hộ như vậy thôi. Nếu muốn tìm đối tượng, mục
tiêu đích thực của hành vi đơn phương này, thì bối cảnh ấy cho đủ ánh sáng.
Bài viết nhỏ này được viết trong thời gian tác giả nằm
trong bệnh viện, không có phương tiện tìm thêm tư liệu ở các thư viện. Với mục
đích nhỏ bé là làm sáng tỏ những gì đã nói từ lâu bằng một ngôn ngữ và một lập
luận pháp lý, tác giả không mong gì hơn là được bạn bè có thẩm quyền chỉnh sửa
và bổ túc thêm.
CAO
HUY THUẦN
2 Nguyen Quoc Dinh, Droit international public, Paris, LGDJ, 1975,
trang 325 ; Charles Rousseau, sđd, từ trang 418.
3 Charles de Visscher, Théories et Réalités en Droit international
public, A. Pedone, 4è édition, 1970, trang 281.
4 Charles Rousseau, sđd, trang 424, dẫn Carbone, Promessa e affidamento
nel diritto internazinale, Milan, 1967.
8 Tất cả lịch sử kể ở mục này là lấy từ Hungdah Chiu, China and the
Question of Territorial Sea, Maryland Journal of International Law, Vol.
1, N° 1, 1975.
9 Tao Cheng, Communist China and the Law of the Sea, The American
Journal of International Law, Vol. 13, N° 1, Jan. 1969.
11 Tất cả lịch sử về vấn đề này được giải thích rất rõ trong Lê Minh Nghĩa,
Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng, Kỷ
Yếu Hội Thảo phát triển khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và tranh chấp biển Đông,
NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000, từ trang 300. (có thể đọc toàn văn
bài này trên mạng Thời Đại Mới )
No comments:
Post a Comment