Duy Ái - VOA
12.06.2014
http://www.voatiengviet.com/content/trung-qu%E1%BB%91c-quoc-te-hoa-tranh-chap-bien-dong/1935391.html
Trung Quốc hồi đầu tuần này đã nộp văn thư cho Tổng
thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon để tố cáo Việt Nam gây phương hại cho hòa
bình và ổn định khu vực qua việc cản trở những hoạt động của giàn khoan mà Bắc
Kinh hạ đặt trong vùng biển Hà Nội cho là thuộc khu vực đặc quyền kinh tế của
mình. Đây là lần thứ nhì trong vòng chưa đầy 3 tuần Trung Quốc đưa vấn đề giàn
khoan 981 ra trước Liên hiệp quốc, mặc dù Bắc Kinh lâu nay vẫn nhất mực đòi đàm
phán song phương để giải quyết những vụ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Một số
các nhà phân tích cho rằng sự việc này phản ánh mối lo ngại ngày càng nhiều của
Trung Quốc đối với việc các nước láng giềng sử dụng luật pháp quốc tế để triệt
tiêu ưu thế quân sự của Trung Quốc trong vụ tranh chấp Biển Đông.
Hôm thứ hai (ngày 9 tháng 6) vừa qua, Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên hiệp quốc Vương Dân đã nộp một hồ sơ gọi là thông báo lập trường về vụ giàn khoan 981 cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon và yêu cầu nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc chuyển hồ sơ này cho tất cả các nước hội viên.
Sau khi nộp hồ sơ có nhan đề “Giàn khoan 981: Sự gây hấn của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc”, ông Vương Dân đã họp báo để tố cáo Hà Nội gây phương hại cho hòa bình và ổn định khu vực qua những hành động mà ông gọi là “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc”.
Theo Tân Hoa Xã, hồ sơ lập trường của Trung Quốc có kèm theo nhiều văn kiện để chứng minh điều mà Bắc Kinh gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các quần đảo và vùng biển có tranh chấp với Việt Nam, trong đó có thông cáo về lãnh hải mà Trung Quốc công bố năm 1958 và công hàm cùng năm của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gởi cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Hồ sơ này nói rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa (Việt Nam gọi là Hoàng Sa) từ nhiều thập niên trước.
Trước đó, Việt Nam cũng đã hai lần gởi hồ sơ cho Liên hiệp quốc để tố cáo Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền khi đưa giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển mà Hà Nội cho là thuộc thềm lục địa và khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đại sứ Việt Nam tại Liên hiệp quốc Lê Hoài Trung đã lên tiếng đòi Trung Quốc di dời giàn khoan và hơn 100 chiếc tàu ra khỏi hiện trường để tạo điều kiện cho việc tiến hành đàm phán. Tuy nhiên, ông Trung nói thêm rằng Bắc Kinh liên tục từ chối đối thoại và khăng khăng cho rằng vùng biển đặt giàn khoan “không hề có tranh chấp gì cả.”
Hôm thứ 3 (ngày 10 tháng 6), một ngày sau khi nhận hồ sơ của Trung Quốc, phát ngôn viên Liên hiệp quốc cho báo chí biết rằng cơ quan thế giới này sẵn sàng điều giải vụ tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam.
Ông Stephane Durrajic nói rằng ông Ban Ki Moon sẵn sàng đứng ra làm trung gian điều giải nếu có sự yêu cầu của các bên liên hệ. Nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc cũng bày tỏ hy vọng là vụ tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Theo tường thuật hôm thứ 3 của tạp chí The Diplomat, xét theo bề ngoài thì việc Trung Quốc nêu ra vụ tranh chấp với Việt Nam tại Liên hiệp quốc là một việc khó hiểu, vì lâu nay Bắc Kinh vẫn nhất mực đòi thương thuyết song phương với các nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông và không ngớt chỉ trích điều mà họ gọi là “âm mưu quốc tế hóa” vụ tranh chấp này. Nhưng thật ra, việc nộp hồ sơ lập trường cho Liên hiệp quốc phản ánh mối lo ngại ngày càng nhiều của Trung Quốc đối với việc các nước láng giềng sử dụng luật pháp quốc tế để triệt tiêu ưu thế quân sự của Trung Quốc trong vụ tranh chấp Biển Đông.
Hồi tháng trước, sau khi xảy ra vụ đối đầu vì vụ giàn khoan, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho biết Hà Nội đang xem xét tới việc tiến hành những hành động pháp lý để chống lại những hành vi của Trung Quốc mà nhiều người mô tả là có tính chất gây hấn và gây mất ổn định ở Biển Đông.
Philippines cũng đã kiện Trung Quốc lên Tòa án Trọng tài Liên hiệp quốc về Luật Biển, bất chấp sự phản đối của Bắc Kinh. Các nhà quan sát cho rằng nếu Việt Nam kiện Trung Quốc, quyết định đó có phần chắc sẽ nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của nhiều nước, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia.
Các nhà phân tích cho rằng qua việc chủ động nêu vấn đề Biển Đông tại một tổ chức quốc tế và trình bày yêu sách chủ quyền của mình, Trung Quốc có thể đang tìm cách làm cho Việt Nam không thực hiện lời đe dọa mà ông Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra.
Theo nhận xét của nhà bình luận Zachary Keck của tờ The Diplomat, chiến lược mới của Trung Quốc có tính chất hợp lý đối với vụ tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, nơi mà ông cho là Trung Quốc có những luận cứ tương đối vững chắc. Ông Keck cho rằng Bắc Kinh đang hy vọng là mối rủi ro thua kiện sẽ khiến Việt Nam từ bỏ ý định đưa vấn đề này ra trước tòa án trọng tài quốc tế, và như thế, các nước khác có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông cũng sẽ cảm thấy ngần ngại trong việc sử dụng luật pháp quốc tế để chống lại Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo ông Keck, chiến lược mới của Trung Quốc là một canh bạc nguy hiểm vì Trung Quốc đang quốc tế hóa vụ tranh chấp và nâng cao vị trí của luật pháp quốc tế như một cơ sở cho các yêu sách chủ quyền và giải quyết tranh chấp.
Ông Keck cho rằng tuy điều này có thể có lợi cho Trung Quốc trong vụ tranh chấp với Việt Nam về vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, nhưng đường lưỡi bò mà Bắc Kinh dùng để đòi chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông hoàn toàn trái ngược với luật pháp quốc tế. Và do đó Trung Quốc sẽ gặp phải mối rủi ro là tạo ra một tiền lệ mà họ không muốn phải tôn trọng trong nhiều trường hợp tương tự.
Trong lúc Bắc Kinh và Hà Nội đưa vụ đối đầu về giàn khoan ra trước Liên hiệp quốc, nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ về Đông Á đã nhắc lại lập trường của Washington là không nghiêng về bên nào trong vụ tranh chấp, tuy ông đã chỉ trích cách hành xử của Trung Quốc để củng cố yêu sách của mình.
Phát biểu tại cuộc họp báo ở Rangoon hôm thứ 3 vừa qua, ông nói rằng “Chúng tôi không có ý kiến đối với vấn đề yêu sách của Trung Quốc mạnh hơn hay yêu sách của Việt Nam mạnh hơn. Chúng tôi chỉ không tán đồng sự khẳng định thẳng thừng của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc là yêu sách của họ là không thể tranh cãi.” Vị trợ lý ngoại trưởng Mỹ hối thúc Trung Quốc và Việt Nam rút toàn bộ tàu bè ra khỏi khu vực đang có đối đầu và yêu cầu Bắc Kinh dời giàn khoan đi nơi khác.
Ông Russel cũng khuyến khích Trung Quốc tham gia vụ kiện với Philippines tại Tòa án Trọng tài Liên hiệp quốc. Ông nói rằng đó là một cơ hội “để loại bỏ sự mơ hồ liên quan tới những yêu sách của Trung Quốc, những yêu sách đã góp phần làm gia tăng căng thẳng và bất trắc trong khu vực.”
Hôm thứ hai (ngày 9 tháng 6) vừa qua, Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên hiệp quốc Vương Dân đã nộp một hồ sơ gọi là thông báo lập trường về vụ giàn khoan 981 cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon và yêu cầu nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc chuyển hồ sơ này cho tất cả các nước hội viên.
Sau khi nộp hồ sơ có nhan đề “Giàn khoan 981: Sự gây hấn của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc”, ông Vương Dân đã họp báo để tố cáo Hà Nội gây phương hại cho hòa bình và ổn định khu vực qua những hành động mà ông gọi là “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc”.
Theo Tân Hoa Xã, hồ sơ lập trường của Trung Quốc có kèm theo nhiều văn kiện để chứng minh điều mà Bắc Kinh gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các quần đảo và vùng biển có tranh chấp với Việt Nam, trong đó có thông cáo về lãnh hải mà Trung Quốc công bố năm 1958 và công hàm cùng năm của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gởi cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Hồ sơ này nói rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa (Việt Nam gọi là Hoàng Sa) từ nhiều thập niên trước.
Trước đó, Việt Nam cũng đã hai lần gởi hồ sơ cho Liên hiệp quốc để tố cáo Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền khi đưa giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển mà Hà Nội cho là thuộc thềm lục địa và khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đại sứ Việt Nam tại Liên hiệp quốc Lê Hoài Trung đã lên tiếng đòi Trung Quốc di dời giàn khoan và hơn 100 chiếc tàu ra khỏi hiện trường để tạo điều kiện cho việc tiến hành đàm phán. Tuy nhiên, ông Trung nói thêm rằng Bắc Kinh liên tục từ chối đối thoại và khăng khăng cho rằng vùng biển đặt giàn khoan “không hề có tranh chấp gì cả.”
Hôm thứ 3 (ngày 10 tháng 6), một ngày sau khi nhận hồ sơ của Trung Quốc, phát ngôn viên Liên hiệp quốc cho báo chí biết rằng cơ quan thế giới này sẵn sàng điều giải vụ tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam.
Ông Stephane Durrajic nói rằng ông Ban Ki Moon sẵn sàng đứng ra làm trung gian điều giải nếu có sự yêu cầu của các bên liên hệ. Nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc cũng bày tỏ hy vọng là vụ tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Theo tường thuật hôm thứ 3 của tạp chí The Diplomat, xét theo bề ngoài thì việc Trung Quốc nêu ra vụ tranh chấp với Việt Nam tại Liên hiệp quốc là một việc khó hiểu, vì lâu nay Bắc Kinh vẫn nhất mực đòi thương thuyết song phương với các nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông và không ngớt chỉ trích điều mà họ gọi là “âm mưu quốc tế hóa” vụ tranh chấp này. Nhưng thật ra, việc nộp hồ sơ lập trường cho Liên hiệp quốc phản ánh mối lo ngại ngày càng nhiều của Trung Quốc đối với việc các nước láng giềng sử dụng luật pháp quốc tế để triệt tiêu ưu thế quân sự của Trung Quốc trong vụ tranh chấp Biển Đông.
Hồi tháng trước, sau khi xảy ra vụ đối đầu vì vụ giàn khoan, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho biết Hà Nội đang xem xét tới việc tiến hành những hành động pháp lý để chống lại những hành vi của Trung Quốc mà nhiều người mô tả là có tính chất gây hấn và gây mất ổn định ở Biển Đông.
Philippines cũng đã kiện Trung Quốc lên Tòa án Trọng tài Liên hiệp quốc về Luật Biển, bất chấp sự phản đối của Bắc Kinh. Các nhà quan sát cho rằng nếu Việt Nam kiện Trung Quốc, quyết định đó có phần chắc sẽ nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của nhiều nước, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia.
Các nhà phân tích cho rằng qua việc chủ động nêu vấn đề Biển Đông tại một tổ chức quốc tế và trình bày yêu sách chủ quyền của mình, Trung Quốc có thể đang tìm cách làm cho Việt Nam không thực hiện lời đe dọa mà ông Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra.
Theo nhận xét của nhà bình luận Zachary Keck của tờ The Diplomat, chiến lược mới của Trung Quốc có tính chất hợp lý đối với vụ tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, nơi mà ông cho là Trung Quốc có những luận cứ tương đối vững chắc. Ông Keck cho rằng Bắc Kinh đang hy vọng là mối rủi ro thua kiện sẽ khiến Việt Nam từ bỏ ý định đưa vấn đề này ra trước tòa án trọng tài quốc tế, và như thế, các nước khác có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông cũng sẽ cảm thấy ngần ngại trong việc sử dụng luật pháp quốc tế để chống lại Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo ông Keck, chiến lược mới của Trung Quốc là một canh bạc nguy hiểm vì Trung Quốc đang quốc tế hóa vụ tranh chấp và nâng cao vị trí của luật pháp quốc tế như một cơ sở cho các yêu sách chủ quyền và giải quyết tranh chấp.
Ông Keck cho rằng tuy điều này có thể có lợi cho Trung Quốc trong vụ tranh chấp với Việt Nam về vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, nhưng đường lưỡi bò mà Bắc Kinh dùng để đòi chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông hoàn toàn trái ngược với luật pháp quốc tế. Và do đó Trung Quốc sẽ gặp phải mối rủi ro là tạo ra một tiền lệ mà họ không muốn phải tôn trọng trong nhiều trường hợp tương tự.
Trong lúc Bắc Kinh và Hà Nội đưa vụ đối đầu về giàn khoan ra trước Liên hiệp quốc, nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ về Đông Á đã nhắc lại lập trường của Washington là không nghiêng về bên nào trong vụ tranh chấp, tuy ông đã chỉ trích cách hành xử của Trung Quốc để củng cố yêu sách của mình.
Phát biểu tại cuộc họp báo ở Rangoon hôm thứ 3 vừa qua, ông nói rằng “Chúng tôi không có ý kiến đối với vấn đề yêu sách của Trung Quốc mạnh hơn hay yêu sách của Việt Nam mạnh hơn. Chúng tôi chỉ không tán đồng sự khẳng định thẳng thừng của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc là yêu sách của họ là không thể tranh cãi.” Vị trợ lý ngoại trưởng Mỹ hối thúc Trung Quốc và Việt Nam rút toàn bộ tàu bè ra khỏi khu vực đang có đối đầu và yêu cầu Bắc Kinh dời giàn khoan đi nơi khác.
Ông Russel cũng khuyến khích Trung Quốc tham gia vụ kiện với Philippines tại Tòa án Trọng tài Liên hiệp quốc. Ông nói rằng đó là một cơ hội “để loại bỏ sự mơ hồ liên quan tới những yêu sách của Trung Quốc, những yêu sách đã góp phần làm gia tăng căng thẳng và bất trắc trong khu vực.”
----------------------
12.06.2014
Trung Quốc sử dụng những bản in từ một sách địa lý
cho học sinh lớp 9 của Việt Nam xuất bản cách nay 40 năm để vận động sự ủng hộ
của quốc tế trong đòi hỏi chủ quyền của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo tin của đài truyền hình CNN, những trang sách giáo khoa này nằm trong số các tài liệu mà Bắc Kinh đã nộp cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon, kèm theo lời yêu cầu phân phát các tài liệu này cho tất cả 193 thành viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.
Bản tin cho biết những trang sách địa lý đó nằm trong một tập hồ sơ bao gồm một bản đồ khu vực, công hàm năm 1958 của Việt Nam, và trang bìa của một bản đồ thế giới in vào năm 1972.
Xinhua, cơ quan ngôn luận chính thức của Trung Quốc, trích lời ông Vương Dân, Phó Đại sứ của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, nói rằng “Trung Quốc nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để trình bày sự thật với cộng đồng quốc tế, và sửa sai cách hiểu biết của quốc tế về vấn đề này.”
CNN tường thuật rằng đây là cố gắng mới nhất của Trung Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của nước này trong một khu vực mà Việt Nam cũng tuyên bố thuộc chủ quyền của mình, giữa lúc cả hai nước tố cáo tàu bè của nước kia đâm va vào tàu của mình ngoài Biển Đông.
Trả lời ban Việt ngữ Đài VOA, một nhà sử học đã bảo vệ luận án Tiến sĩ xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Tiến sĩ Nguyễn Nhã, xác nhận là sách giáo khoa liên hệ dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam có công nhận rằng quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, nhưng theo ông, sách giáo khoa đó không có giá trị trước pháp lý quốc tế.
Sau đây là cuộc trao đổi ngắn giữa Tiến sĩ Nguyễn Nhã trao với Ban Việt ngữ VOA:
“Trong sách giáo khoa đó thì cái bản đồ có ghi là Tây Sa là của Trung Quốc.”
VOA: Sách đó có nói Tây Sa là của Trung Quốc?
Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Vâng, Tây Sa là của Trung Quốc, dạ vâng.
VOA: Thưa sách giáo khoa đó là dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam phải không ạ, mà lại khẳng định Tây Sa là của Trung Quốc?
Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Tôi đã nói là cái tâm lý của hai miền Nam Bắc đối đầu với nhau, thì sẵn sàng ủng hộ đồng chí đồng minh của mình thôi, nhưng mà nó không có giá trị trước luật pháp quốc tế vì vấn đề không có thẩm quyền để mà từ bỏ chủ quyền. Hiệp định Genève quy định rất rõ là chính quyền phía Nam mới quản lý (Hoàng Sa).”
CNN trích lời ông Sam Bateman, một nhà nghiên cứu thuộc Chương trình An ninh Hàng Hải của Trường Quan Hệ Quốc tế S. Rajaratnam thuộc Đại Học Công Nghệ Nanyang ở Singapore, nói rằng Bắc Kinh đang tìm cách bắt kịp Việt Nam, sau một chiến dịch khá hiệu quả của Hà Nội nhằm vận động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường của Hà Nội về cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Tuy nhiên, ông Sam Bateman nói rằng mặc dù Việt Nam đi trước Trung Quốc trong cuộc quốc tế vận này, đa số các nhà quan sát quốc tế độc lập cho rằng những lập luận của Trung Quốc đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa vững chắc hơn các lập luận của Việt Nam.
Trong một lập luận chắc chắn sẽ gây nhiều tranh cãi, nhà nghiên cứu này nói bước hành động tốt nhất đối với Việt Nam, là nhường chủ quyền cho Trung Quốc, và thương thuyết để có được những sự nhượng bộ của Trung Quốc, kể cả việc tiếp cận các vùng biển để đánh cá, và một thỏa thuận để khai thác chung các tài nguyên dầu khí.
Nhà sử học Nguyễn Nhã phản bác lập luận của Giaó sư Bateman:
“Ông đó chắc là người thân Trung Quốc đó! Theo tôi một cách khách quan thì cái gì của Cesar phải trả lại cho Cesar thôi. Còn tất cả những gì mà Trung Quốc nói, nhất là sau 1974, thì hoàn toàn mang tính cách suy diễn mà thôi, không có sự thực lịch sử. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử, theo luật pháp quốc tế cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phải là một sự chiếm hữu thực sự mang tính nhà nước, liên tục và hòa bình. Theo tôi thì suốt từ Chúa Nguyễn, nhà Nguyễn cho tới thời kỳ Pháp thuộc, cho đến thời kỳ thống nhất, chưa có một chính quyền nào có trách nhiệm quản lý Hoàng Sa Trường Sa nào từ bỏ chủ quyền cả.”
Việt Nam cũng đã nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để tố cáo Trung Quốc là vi phạm “nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam”, và tiếp tục tố cáo “nhiều tàu Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá của Việt Nam.”
Các nhà phân tích cho rằng những tố cáo qua lại giữa hai nước đã làm vẫn đục lối tiếp cận lẽ ra nên có là hợp tác khu vực như đã vạch ra trong Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.
Theo tin của đài truyền hình CNN, những trang sách giáo khoa này nằm trong số các tài liệu mà Bắc Kinh đã nộp cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon, kèm theo lời yêu cầu phân phát các tài liệu này cho tất cả 193 thành viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.
Bản tin cho biết những trang sách địa lý đó nằm trong một tập hồ sơ bao gồm một bản đồ khu vực, công hàm năm 1958 của Việt Nam, và trang bìa của một bản đồ thế giới in vào năm 1972.
Xinhua, cơ quan ngôn luận chính thức của Trung Quốc, trích lời ông Vương Dân, Phó Đại sứ của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, nói rằng “Trung Quốc nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để trình bày sự thật với cộng đồng quốc tế, và sửa sai cách hiểu biết của quốc tế về vấn đề này.”
CNN tường thuật rằng đây là cố gắng mới nhất của Trung Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của nước này trong một khu vực mà Việt Nam cũng tuyên bố thuộc chủ quyền của mình, giữa lúc cả hai nước tố cáo tàu bè của nước kia đâm va vào tàu của mình ngoài Biển Đông.
Trả lời ban Việt ngữ Đài VOA, một nhà sử học đã bảo vệ luận án Tiến sĩ xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Tiến sĩ Nguyễn Nhã, xác nhận là sách giáo khoa liên hệ dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam có công nhận rằng quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, nhưng theo ông, sách giáo khoa đó không có giá trị trước pháp lý quốc tế.
Sau đây là cuộc trao đổi ngắn giữa Tiến sĩ Nguyễn Nhã trao với Ban Việt ngữ VOA:
“Trong sách giáo khoa đó thì cái bản đồ có ghi là Tây Sa là của Trung Quốc.”
VOA: Sách đó có nói Tây Sa là của Trung Quốc?
Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Vâng, Tây Sa là của Trung Quốc, dạ vâng.
VOA: Thưa sách giáo khoa đó là dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam phải không ạ, mà lại khẳng định Tây Sa là của Trung Quốc?
Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Tôi đã nói là cái tâm lý của hai miền Nam Bắc đối đầu với nhau, thì sẵn sàng ủng hộ đồng chí đồng minh của mình thôi, nhưng mà nó không có giá trị trước luật pháp quốc tế vì vấn đề không có thẩm quyền để mà từ bỏ chủ quyền. Hiệp định Genève quy định rất rõ là chính quyền phía Nam mới quản lý (Hoàng Sa).”
CNN trích lời ông Sam Bateman, một nhà nghiên cứu thuộc Chương trình An ninh Hàng Hải của Trường Quan Hệ Quốc tế S. Rajaratnam thuộc Đại Học Công Nghệ Nanyang ở Singapore, nói rằng Bắc Kinh đang tìm cách bắt kịp Việt Nam, sau một chiến dịch khá hiệu quả của Hà Nội nhằm vận động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường của Hà Nội về cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Tuy nhiên, ông Sam Bateman nói rằng mặc dù Việt Nam đi trước Trung Quốc trong cuộc quốc tế vận này, đa số các nhà quan sát quốc tế độc lập cho rằng những lập luận của Trung Quốc đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa vững chắc hơn các lập luận của Việt Nam.
Trong một lập luận chắc chắn sẽ gây nhiều tranh cãi, nhà nghiên cứu này nói bước hành động tốt nhất đối với Việt Nam, là nhường chủ quyền cho Trung Quốc, và thương thuyết để có được những sự nhượng bộ của Trung Quốc, kể cả việc tiếp cận các vùng biển để đánh cá, và một thỏa thuận để khai thác chung các tài nguyên dầu khí.
Nhà sử học Nguyễn Nhã phản bác lập luận của Giaó sư Bateman:
“Ông đó chắc là người thân Trung Quốc đó! Theo tôi một cách khách quan thì cái gì của Cesar phải trả lại cho Cesar thôi. Còn tất cả những gì mà Trung Quốc nói, nhất là sau 1974, thì hoàn toàn mang tính cách suy diễn mà thôi, không có sự thực lịch sử. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử, theo luật pháp quốc tế cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phải là một sự chiếm hữu thực sự mang tính nhà nước, liên tục và hòa bình. Theo tôi thì suốt từ Chúa Nguyễn, nhà Nguyễn cho tới thời kỳ Pháp thuộc, cho đến thời kỳ thống nhất, chưa có một chính quyền nào có trách nhiệm quản lý Hoàng Sa Trường Sa nào từ bỏ chủ quyền cả.”
Việt Nam cũng đã nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để tố cáo Trung Quốc là vi phạm “nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam”, và tiếp tục tố cáo “nhiều tàu Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá của Việt Nam.”
Các nhà phân tích cho rằng những tố cáo qua lại giữa hai nước đã làm vẫn đục lối tiếp cận lẽ ra nên có là hợp tác khu vực như đã vạch ra trong Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.
---------------------
11-6-2014 at
11:30pm
Tấm ảnh này được cho là hình chụp Tập bản
đồ Thế giới do Cục Đo đạc Bản đồ, cơ quan in bản đồ chính thức của
Chính phủ Việt Nam trực thuộc Phủ thủ tướng, xuất bản năm 1972.
Bản đồ chú thích hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố có chủ quyền theo cách gọi của Trung Quốc là 'Tây Sa' và 'Nam Sa'.
Đây là một trong số những bằng chứng mới nhất mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc trưng ra cho công luận thế giới bên cạnh công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để chứng tỏ rằng 'Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với hai quần đảo này'.
Những bằng chứng này đã được đăng tải trên trang chủ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào lúc đối đầu giữa Việt Nam và Trung Quốc xung quanh giàn khoan Hải Dương 981 gia tăng.
Tờ Hoàn cầu Thời báo hôm 10/6 dẫn lời một học giả Trung Quốc tại Đại học Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, nói: "Theo luật pháp quốc tế, một khi điều gì đã được ghi ra văn bản chính thức của Nhà nước thì không thể nói lại. Tuy nhiên, cũng chính cái Chính phủ đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc vào năm 1958 nay lại trắng trợn phủ nhận và thách thức chủ quyền của Trung Quốc."
BBC đang hỏi ý kiến các học giả từ Việt Nam về những 'bằng chứng' này nhưng muốn hỏi các bạn đánh giá thế nào về sức thuyết phục của những 'chứng cứ' này với công luận quốc tế?
Bản đồ chú thích hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố có chủ quyền theo cách gọi của Trung Quốc là 'Tây Sa' và 'Nam Sa'.
Đây là một trong số những bằng chứng mới nhất mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc trưng ra cho công luận thế giới bên cạnh công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để chứng tỏ rằng 'Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với hai quần đảo này'.
Những bằng chứng này đã được đăng tải trên trang chủ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào lúc đối đầu giữa Việt Nam và Trung Quốc xung quanh giàn khoan Hải Dương 981 gia tăng.
Tờ Hoàn cầu Thời báo hôm 10/6 dẫn lời một học giả Trung Quốc tại Đại học Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, nói: "Theo luật pháp quốc tế, một khi điều gì đã được ghi ra văn bản chính thức của Nhà nước thì không thể nói lại. Tuy nhiên, cũng chính cái Chính phủ đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc vào năm 1958 nay lại trắng trợn phủ nhận và thách thức chủ quyền của Trung Quốc."
BBC đang hỏi ý kiến các học giả từ Việt Nam về những 'bằng chứng' này nhưng muốn hỏi các bạn đánh giá thế nào về sức thuyết phục của những 'chứng cứ' này với công luận quốc tế?
Những bằng chứng TQ đưa ra chỉ có giá trị thời VNDCCH (trước 1975), nhưng sau 1975, chế độ CHXHCNVN đã thay sách giáo khoa mới. Với chính thể mới hiện nay tài liệu ấy là vô nghĩa!
ReplyDelete