TS.
Dương Danh Huy
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Cập nhật: 08:59 GMT - thứ ba, 10 tháng 6,
2014
Tường thuật của ngư dân và clip về việc tàu cá Việt
Nam bị tàu Trung Quốc bao vây, đuổi và đâm chìm làm tôi nhớ lại một chuyện thời
sinh viên.
Hôm đó, tôi thấy trong một thư viện của đại học một
quyển sách với một chuỗi hình chụp từ máy bay. Những hình này chụp lại cảnh một
chiếc thuyền cuả người Việt tỵ nạn trong thập niên 1980 bị nhiều thuyền hải tặc
bao vây. Thuyền hải tặc dùng bạt che số hiệu và đâm húc cho đến khi chiếc thuyền
xấu số chìm. Không biết bao nhiêu sinh mạng đã bị dập tắt trong lòng biển. Lần
này may mắn là các nạn nhân được cứu.
Từ năm 2009, Trung Quốc đã đâm húc tàu thuyền ngư
dân Việt Nam, bắn họ, đánh đập họ, bắt họ, đòi tiên chuộc, cướp phá hoại tài sản
của họ biết bao nhiêu lần. Hoàng Sa thì từ khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường
hóa quan hệ ngoại giao, họ khăng khăng là không có tranh chấp, không có gì để
đàm phán. Trong cuộc đối đầu về giàn khoan HD-981, họ đã đâm hư hại 24 tàu của
cơ quan nhà nước Việt Nam, coi nhà nước Việt Nam không ra gì.
Trung
Quốc không nhượng bộ
Với thực tế
đó, còn có gì để nấn ná với khái niệm “kiên trì đàm phán” nữa? Chắc chắn là Trung Quốc sẽ không nhượng bộ gì về chủ quyền đối với các đảo.
Về vùng đặc quyền kinh tế có thể có chung quanh các đảo nói chung và vấn đề
giàn khoan HD-981 nói riêng, nếu Trung Quốc có nhượng bộ, chắc chắn là họ sẽ ra
giá. Giá đó có thể là công nhận “chủ quyền Trung Quốc” trên quần đảo và trong
vùng nội thủy và lãnh hải mà họ tuyên bố, hay là để cho họ cùng khai thác trong
vùng Tư Chính - Nam Côn Sơn. Thậm chí, cũng có thể một trong những mục đích chính
của Trung Quốc trong việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 là để gây áp lực
buộc Việt Nam cho họ cùng khai thác trong vùng Tư Chính - Nam Côn Sơn.
Như
vậy, thực chất của biện pháp “kiên trì đàm phán” chính là vì “đại cục” mà hy
sinh Hoàng Sa, và vùng biển Hoàng Sa có thể có. Biện pháp thứ nhì, đối đầu trên thực địa, là không thể thiếu được, nhưng
là một cuộc chiến không cân sức cho Việt Nam. Việt Nam phải bổ xung bên cạnh
lòng dũng cảm, sự chịu đựng và hy sinh của cảnh sát biển Việt Nam, kiểm ngư và ngư
dân với biện pháp thứ ba: biện pháp pháp lý.
Ngày 23/5, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật
pháp quốc tế Bộ Ngoại giao Việt Nam trả lời phóng viên Reuters, “Cá nhân tôi là
một luật gia, tôi luôn luôn hỏi mình khi nào là thời điểm để sử dụng biện pháp
pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta phải chờ đợi quyết định của Chính phủ.”
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Chính trị sẽ quyết định “thời điểm nào hợp
lý” cho việc kiện. Tuy không phải là luật gia, tôi cũng tự hỏi, “Bao giờ Bộ Chính trị Việt Nam mới quyết định xử dụng biện pháp pháp
lý, một biện pháp hòa bình, văn minh, và là biện pháp duy nhất trong đó Việt
Nam có thể chiến đấu một cách bình đẳng với Trung Quốc?”
Dường như có điều gì đó làm họ chần chừ. Có phải là
họ ngại trả đũa kinh tế từ Trung Quốc chăng?
Hệ
quả?
Ngày xưa, khi trả lời câu hỏi “Hòa hay chiến?”, có lẽ
lãnh đạo và người dân Đại Việt cũng đã nghĩ tới những hệ quả xấu cho nông nghiệp
từ vó ngựa Mông Cổ. Có lẽ họ cũng đã nghĩ đến chiến lược đồng không nhà trống
có thể ảnh hưởng đến kinh tế thế nào. Và họ còn phải nghĩ sẽ hy sinh bao nhiêu
xương máu trước quân đội thiện chiến nhất thế giới lúc đó. Nhưng trả lời của họ
vẫn là trả lời mãi có tiếng thơm trong lịch sử.
Ngày nay, câu hỏi không khắc nghiệt bằng “Hòa hay
chiến?”, nó là “Kiện hay không kiện?” (Kiện ở đây là kiện Trung Quốc đã vi
phạm UNCLOS trong sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, không phải là kiện để đòi lại
Hoàng Sa, vì không có tòa nào có thẩm quyền để thụ lý vụ kiện kiện để đòi lại
Hoàng Sa).
Ngày nay, việc ra tòa để giải quyết tranh chấp là một
phương tiện văn minh. Hàng chục nước trên thế giới đã ra tòa để giải quyết
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, trong đó có cả Thái Lan, Campuchia, Malaysia,
Singapore và Indonesia. Philippines cũng đã phải hỏi câu hỏi “Kiện hay không kiện?”,
và họ đã có một trả lời không bị cột vào nỗi sợ Trung Quốc sẽ trả đũa kinh tế,
hay nỗi sợ nào đó khác.
Trả lời của Bộ chính trị cho câu hỏi “Kiện hay
không?” sẽ trả lời những câu hỏi, “Lãnh đạo Việt Nam có dùng tất cả các biện
pháp hòa bình không? Có dùng tất cả những biện pháp cần thiết không? Có dùng tất
cả những biện pháp trong đó Việt Nam có thể đấu tranh một cách bình đẳng
không?”.
Trả lời cho những câu hỏi đó sẽ là những chỉ số quan
trọng về lãnh đạo Việt Nam đối phó với Trung Quốc thế nào trong cuộc tranh chấp
có tính sống còn cho Việt Nam, có thể giúp chúng ta dự đoán về tương lai, và có
thể giúp Trung Quốc đánh giá về ý chí trên thực tế của lãnh đạo Việt Nam.
Trung Quốc đã cố ý triển khai giàn khoan ở một địa
điểm mà Việt Nam có thể đơn phương kiện. Có thể đó là phép thử của họ, xem lãnh
đạo Việt Nam có dám kiện hay không. Nếu Trung Quốc cho rằng lãnh đạo Việt Nam sợ
trả đũa kinh tế, hay sợ điều gì khác, cho nên không dám kiện, họ sẽ lấn tới và
làm cho tình hình của Việt Nam nguy khốn hơn.
Hiện nay, cảnh sát biển và kiểm ngư đang dũng cảm
thi hành nhiệm vụ của họ, ngư dân Việt Nam đang kiên trì bám biển dưới mũi tàu
sắt Trung Quốc, lòng dân đang bức xúc, nhưng chưa biết Bộ chính trị sẽ thi hành
nhiệm vụ của họ thế nào.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và văn phong
của tác giả, một thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
No comments:
Post a Comment