Nguyễn
Trung
Viet-studies
09-06-2014
Giữa lúc dư luận thế giới quan tâm và lên tiếng mạnh
mẽ phê phán Trung Quốc chung quanh sự kiện giàn khoan HD 981 cắm sâu vào thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dư luận thế giới cũng không quên cảnh
báo việc Trung Quốc đang ráo riết tiếp tục thực hiện các dự án có trị giá nhiều
tỷ USD để xây dựng các căn cứ quân sự nổi trên các bãi đá ngầm Gạc Ma và Chữ Thập
của Việt Nam mà Trung Quốc đã đánh chiếm năm 1988, để sẽ hình thành một hệ thống
các căn cứ quân sự nổi trên Biển Đông, lì lợm đẩy tới việc thực hiện “cái lưỡi
bò” chiếm gần hết diện tích Biển Đông.
Nhìn lại hành động của Trung Quốc trên Biển Đông những
năm gần đây, ai cũng thấy những bước đi ầm ỹ, rất hiếu chiến và đe dọa xâm lược
của Trung Quốc trên biển Hoa Đông trong tranh chấp với Nhật, rồi đến việc thiết
lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) tại vùng Bắc Biển Đông. Song về nhiều mặt
những bước đi này đồng thời nhằm tạo thế cho Trung Quốc ngang nhiên đẩy mạnh việc
bành trướng trong vùng Đông Nam Á của Biển Đông, cụ thể là những hoạt động tiếp
tục lấn chiếm vùng Scarborough của Philippines, giờ đây là sự kiện giàn khoan
HD 981 và việc ráo riết xây dựng các căn cứ quân sự trên các bãi đã ngầm ở
Trường Sa của Việt Nam như đã trình bầy trên. Đây là những bước đi của Trung Quốc
có tính toán kỹ lưỡng, vừa nhằm phân tán sự chú ý của dư luận, phô trương thanh
thế để uy hiếp các nước trong khu vực, nhưng đồng thời vừa tranh thủ đi những
bước xa hơn trong vùng Đông Nam Á của Biển Đông để tận dụng lợi thế có sức mạnh
quân sự áp đảo tại chỗ của Trung Quốc.
Song song với những hành động quân sự trắng trợn và
được thực hiện có hệ thống như vậy tại nhiều nơi trên Biển Đông, ông Tập Cận
Bình tuyên bố thẳng thừng Trung Quốc không nhân nhượng, trong khi đó ngoại giao
Trung Quốc ra sức xuyên tạc sự thật và vu cáo các hoạt động hòa bình bảo vệ chủ
quyền của phía Việt Nam.
Có thể nói kể từ sau vụ đánh chiếm 7 đảo và bãi đá của
Việt Nam ở Trường Sa năm 1988, sự uy hiếp của Trung Quốc hiện nay đối với Việt
Nam trên Biển Đông đang leo thang ở mức cao nhất, bất chấp thỏa thuận cấp cao
Việt – Trung (Trương Tấn Sang – Tập Cận Bình) ngày 21-06-2013, trong đó
ghi rõ: “Trước khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai
bên nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp, mở rộng
tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng hoảng
trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với
thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt –
Trung cũng như hòa bình, ổn định tại Biển Đông. Hai bên nhất trí thực hiện toàn
diện, có hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC),
cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.”
Những sự việc trên một lần nữa tái khẳng định thực
tiễn ngoại giao truyền thống của đại Trung Hoa “đánh đánh – đàm đàm, giương
Đông kích Tây”, nói một đằng làm một nẻo, tận dụng mọi quyền lực và cơ hội, chỉ
để thực hiện nhất quán trước sau mục tiêu chiến lược bành trướng. Việt Nam đã
được nếm đủ cay đắng của thứ ngoại giao này của Trung Quốc suốt từ cuộc chiến
tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2-1979 cho đến hôm nay.
Cũng xin đừng quên: Tuyên bố chung cấp cao
21-06-2013 nêu trên thật ra chỉ là một trong nhiều cam kết đầu lưỡi mà phía
Trung Quốc đã không dưới một lần dành cho phía Việt Nam trong các cuộc hội đàm
cấp cao như vậy kể từ Thành Đô 1990. Có bao nhiêu tuyên bố cấp cao như thế thì
có bằng nấy lời nói đường mật chỉ để gây hỏa mù. Nhân đây cũng phải nhắc lại,
quan hệ hợp tác hữu nghị với 4 tốt và 16 chữ vàng từ Hội nghị Thành
Đô 1990 để bình thường hóa quan hệ hai nước sau chiến tranh đã dẫn tới kết cục
hôm nay. Không thể nói quan hệ Việt Nam – Trung Quốc cơ bản là tốt đẹp như tướng
Phùng Quang Thanh phát biểu và làm cho dư luận trong nước cũng như trên thế giới
sững sờ.
Không phải ngẫu nhiên nhiều thức giả Việt Nam, trong
đó có Nguyễn Khắc Mai và Nguyên Ngọc, đã lên tiếng cảnh báo: Đừng để cho sự kiện
giàn khoan HD 981 che khuất các căn cứ quân sự nổi của Trung Quốc đang hình
thành ở bãi đá Gạc Ma, ở bãi đá Chữ Thập; đừng để cho một cử chỉ lừa mị nào của
phía Trung Quốc có thể dấy lên ý nghĩ cầu xin kẻ xâm lược trả lại những gì đã bị
chiếm. Càng không thể đánh đổi độc lập và chủ quyền quốc gia lấy thứ quan hệ
hòa hiếu viễn vông!
Kinh nghiệm thất bại vô cùng đau đớn trong quan hệ
ngoại giao với Trung Quốc từ Thành Đô đến nay là đảng và nhà nước đã bưng bít
nhân dân ta sự thật về quan hệ giữa hai nước, qua đó phía ta luôn phải đàm phán
với Trung Quốc trên thế yếu và không tranh thủ được sự hậu thuẫn không thể thiếu
của nhân dân, dẫn tới nhiều thất bại trong thực hiện các thỏa thuận.
Thực tế cũng chỉ ra mọi hứa hẹn tốt đẹp của phía
Trung Quốc về phát triển quan hệ 2 nước chỉ là lời nói suông, mọi thỏa thuận
ngoại giao bí mật chẳng những là vô nghĩa mà còn gây ra nhiều tác hại nhiều chiều
và rất nguy hiểm cho nước ta. Cho đến nay, bất kể một bố thí hòa hoãn nào của
phía Trung Quốc cũng đều chung một mục đích chuẩn bị cho bước leo thang cao hơn
trong lấn chiếm lãnh thổ và xâm phạm chủ quyền của nước ta, không có một ngoại
lệ.
Quan hệ hai nước Việt – Trung chỉ thừa nhận một sự
thật duy nhất: Việt Nam có bản lĩnh đến đâu thì bảo vệ được chủ quyền của mình
và phát triển được quan hệ bình thường đến đấy, chẳng có quà tặng nào của lòng
tốt dành cho ta cả. Kinh nghiệm còn luôn luôn thẳng thắn chỉ ra: Ta càng nhân
nhượng, Trung Quốc càng lấn tới, ta không có cách gì thỏa mãn được đòi hỏi của
bành trướng.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 9-6-14
No comments:
Post a Comment