Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC từ Global Policy Institute, London
Cập nhật: 10:40 GMT - thứ hai, 4 tháng 3, 2013
Trong Bản nhận định và góp ý gửi tới
Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 hôm 01/03, Hội đồng Giám mục Việt Nam
không chỉ bày tỏ bất đồng với Điều 4 mà còn mạnh dạn nêu lên những mâu thuẫn,
bất hợp lý trong cơ cấu chính trị tại Việt Nam và những hậu quả mà những mâu
thuẫn, phi lý ấy mang đến cho người dân và đất nước.
Có thể nói từ
trước tới nay chưa bao giờ các Giám mục Việt Nam thẳng thắn, công khai và mạnh
dạn lên tiếng như vậy.
Điểm ‘tử huyệt’ của chế độ
Bản nhận định,
góp ý của các Giám mục Việt Nam đã nêu rõ rằng “trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định một cách tiên thiên
sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái chính trị nào, vì chủ thể của quyền bính chính
trị chính là nhân dân”.
Và vì vậy, cần “xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái chính
trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải
là công cụ của một đảng cầm quyền nào”.
Với những nhận
định rõ ràng và dứt khoát như vậy, một cách gián tiếp Hội đồng Giám mục muốn
loại bỏ Điều 4 khỏi Hiến Pháp dù trước đó năm ngày, Tổng Bí thư đảng CSVN
Nguyễn Phú Trọng cho rằng những ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 là suy thoái đạo
đức, lối sống.
Ngoài việc dám
thẳng thắn điểm vào ‘tử huyệt’ của đảng Cộng sản, Bản nhận định và góp ý của
các Giám mục còn nêu lên nhiều mâu thuẫn, phi lý trong cơ cấu chính trị ở Việt
Nam và những mâu thuẫn, bất hợp lý ấy được thể hiện ngay trong nội dung của
Hiến pháp.
Theo nhận định
của HĐGM, chính những mâu thuẫn và phi lý ấy là “lý do lớn, dẫn đến tình trạng
trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt. Các Giám mục kêu gọi phải có
những thay đổi căn bản về “quyền con người”, “quyền làm chủ của nhân dân”, và
về việc “thi hành quyền bính chính trị”, trong lần sửa đổi Hiến pháp lần này.
Tiếng nói chính thức, mạnh mẽ
Có thể nói đây
cũng là lần đầu tiên các Vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo Việt Nam công khai và
mạnh mẽ lên tiếng về một việc hệ trọng của đất nước, dân tộc như vậy.
Vào năm 2002,
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã có Thư ngỏ gửi lãnh đạo các cơ quan lập pháp của
Nhà nước Việt Nam. Trong Thư ngỏ đó các Giám mục Việt Nam đã nhận định rằng để
“xây dựng và phát triển một xã hội nhân bản, một xã hội không làm què quặt và
hủy hoại con người”, cần phải “xóa giảm những khuyết tật hiện hữu của xã hội”,
như “cơ chế xin-cho” và “phát huy những giá trị nhân bản làm cho con người ngày
càng trở nên người hơn, sống xứng với phẩm giá của mình hơn”.
Đó lần đầu tiên
kể từ năm 1975, Giáo hội Công giáo mới công khai và mạnh dạn nêu những vấn nạn
trong xã hội, đặc biệt là cơ chế xin-cho. Tuy vậy, so với những điều được nêu
trong Bản nhận định, góp ý lần này, thì nội dung Thư ngỏ đó nhẹ nhàng hơn
nhiều.
Trong thời gian
qua có một vài Giám mục như Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Vinh, ký vào các
kiến nghị của các nhân sỹ, trí thức về các vấn đề liên quan đến tình hình đất
nước. Mới đây, Đức cha Nguyễn Chí Linh, Giám mục Thanh Hóa và Đức cha Ngô Quang
Kiệt, nguyên Tổng Giám mục Hà Nội, cũng ký vào ‘Kiến nghị 72’.
Vào tháng 5 năm
2012, Ủy Ban Công lý và Hòa bình thuộc HĐGM đưa ra một bản “Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam
hiện nay”, trong đó đề cập đến một số vấn đề nhức nhối, hệ trọng liên quan
đến nền kinh tế Việt Nam, luật đất đai, môi trường xã hội, chủ quyền quốc gia,
pháp luật, sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục y tế và tự do tôn giáo.
Sáu tháng sau đó
cũng Ủy ban này đã có “Bản phúc trình về
tình hình công lý, hòa bình và nhân quyền trong xã hội Việt Nam hiện nay”,
trong đó nêu rõ những tệ nạn đang xảy ra tại Việt Nam. Sau vụ xử các thanh niên
Công giáo và Tin Lành tại Nghệ An mới đây, Ban Công lý và Hòa bình Giáo phận
Vinh cũng đã lên tiếng “phản đối bản án
phi pháp và bất công”.
Nhưng có thế nói
dù rất thẳng thắn, mạnh dạn, những tiếng nói, nhận định hay phúc trình ấy được
làm tương đối đơn lẻ, ở cấp thấp và mang tính nội bộ. Chẳng hạn, Bản phúc trình
của Ủy ban Công lý không được gửi cho lãnh đạo hay cơ quan nào của Việt Nam mà
gửi cho các Giám mục trong HĐGM Việt Nam.
Còn Bản nhận
định và góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này được Đức cha Nguyễn Văn Nhơn và
Đức cha Hoàng Văn Đạt – Chủ tịch và Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam –
nhân danh HĐGM VN gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Tại sao vào thời điểm này?
Giáo hội đưa ra
những nhận định, góp ý như vậy lúc này vì cũng như bao người dân, nhân sỹ, trí
thức khác, từ lâu giáo dân, linh mục, tu sỹ và các giám mục Việt Nam thấy rõ
những bất cập, phi lý ở Việt Nam và cảm thấy đã đến lúc phải chính thức lên
tiếng.
Chẳng hạn, Bản
phúc trình của Ủy ban Công lý và Hòa bình đã nêu cụ thể bảy vấn nạn – nếu không
muốn nói là tệ nạn – đang xảy ra tại Việt Nam, trong đó tình trạng “xử án bất
công”, “dùng bạo lực để giải quyết các tranh chấp dân sự” hay “tham nhũng thành
quốc nạn”.
Có thể nói những
nhận định, góp ý của Hội đồng Giám mục lần này là kết quả của những ưu tư, lo
lắng mà các Giám mục đã có từ trước.
Một yếu tố quan
trọng khác làm các Giám mục Việt Nam lên tiếng đó là các Ngài ý thức rằng việc
sửa đổi Hiến pháp lần này là một việc hệ trọng và cũng là một cơ hội có một
không hai giúp Việt Nam có những thay đổi quan trọng để qua đó đất nước thực sự
tiến tới tự do, dân chủ, giàu mạnh.
Ngoài ra, trong
thời gian vừa qua người dân cũng như nhiều nhân sỹ, trí thức đã mạnh dạn lên
tiếng góp ý và muốn có những thay đổi căn bản, quan trọng trong việc sửa đổi
Hiến pháp lần này.
Và vì “không hề
thờ ơ với tình hình đất nước” và muốn “góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc
xây dựng một đất nước phát triển vững bền, dân chủ và nhân ái” như hai Bạn nhận
định của Ủy ban Công lý và Hòa bình nêu rõ, Giáo hội không thể im lặng trước sự
kiện quan trọng như vậy.
Chọn đồng hành với Dân tộc
Một điểm đáng
lưu ý nữa là Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng gửi bản nhận định và góp ý đó đến
“nhân dân cả nước”.
Và trong phần
kết luận, các Giám mục đã nêu rõ mục đính chính của những nhận định, góp ý ấy
là muốn “góp phần xây dựng Hiến pháp cho hợp lý và hợp lòng dân”, cũng như “ước
mong mọi người dân Việt Nam tích cực góp phần vào việc điều chỉnh Hiến pháp,
phục vụ sự phát triển toàn diện và bền vững của dân tộc Việt Nam”.
Có thể nói, qua
những nhận định và góp ý ấy, HĐGM Việt Nam muốn chính thức và rõ ràng bày tỏ
rằng Giáo hội luôn đồng hành với người dân, với Dân tộc Việt Nam, luôn đứng về
phía người dân và với tư cách công dân của mình muốn góp tiếng nói, góp phần
của mình để qua đó những quyền căn bản của người dân được tôn trọng, dân tộc
Việt Nam được phát triển toàn diện, bền vững.
Cũng nên nhắc
lại rằng năm 1980, các Giám mục Việt Nam đã ra một Thư chung kêu gọi con cái
mình “sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” hay “đồng hành với dân tộc”. Văn kiện này
được xem như bản định hướng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sau biến cố 1975.
Nhưng kể từ đó,
cụm từ “đồng hành với dân tộc” luôn được chính quyền Việt Nam dùng và thường
được diễn giải theo hướng có lợi cho mình. Theo cách diễn giải đó, có lúc dân
tộc được đồng hóa với đảng, với chế độ. Và như vậy, đồng hành với dân tộc cũng
có nghĩa là đồng hành với đảng, với chế độ, hay ít ra không được đi ngược với
đường lối, chủ trương, chính sách của đảng.
Qua Bản nhận
định và góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này và với việc yêu cầu “xóa bỏ đặc
quyền của bất kỳ đảng phái chính trị nào” trong Hiến pháp, Giáo hội muốn có một
Hiến pháp thực sự là ‘của dân, do dân và vì dân’, chứ không phải một Hiến pháp
của, do hay vì bất cứ một đảng phái chính trị nào.
Bài viết thể
hiện quan điểm và văn phong của tác giả, một trí thức Công giáo hiện
làm nghiên cứu tại Viện Global Policy, London.
-------------------------------------
No comments:
Post a Comment