Nguyễn Hiếu - Petrotimes
15:20
| 20/03/2013
Căn bệnh “trí thức lỏng” của nước ta vẫn ngày càng phát triển và chưa có
biện pháp nào hữu hiệu ngăn chặn. Nạn háo danh đang hành xác trí thức!
Những người Việt trên dưới 60 tuổi được xem là thế hệ bắt
đầu của một nền giáo dục dưới chính thể mới. Dạo đó không ít các nhà quản lý
giáo dục hể hả tuyên bố một câu xanh rờn “chúng ta tự hào khi có thể giảng dạy
tiếng Việt ở bậc đại học”. Sự tự mãn quá lớn này đã để lại hậu quả là hầu hết
các trí thức của ta được đào tạo trong nước từ năm 1954 đổ lại đây đều không sử
dụng thành thạo nổi một ngoại ngữ. Điều này làm ta chạnh lòng khi nghĩ đến thế
hệ cha ông ta thời Pháp chỉ mới ở trình độ sơ học yếu lược - tương đương lớp 5
hiện nay đã có thể nói và đọc tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ. Nhưng thôi, tạm coi
hiện trạng “mù ngoại ngữ” này như một tồn tại lịch sử của một thời ấu trĩ trong
giáo dục.
Còn hiện nay trong xu thế sĩ diện, thích tự hào, kiêu hãnh, thích lập kỷ lục ở nhiều lĩnh vực nên chúng ta trong một vài năm gần đây thường háo hức với những danh từ tự phong như “cường quốc thế giới về đóng tàu” khi Vinashin chưa bị đổ bể. Rồi gần đây các nhà quản lý văn nghệ lại hào phóng hô to “Việt Nam ta là “cường quốc thơ” “khi phong trào nhà nhà làm thơ, người người làm thơ dẫn đến tình trạng lạm phát thơ. Trở lại lĩnh vực giáo dục, gần đây các nhà quản lý lại kiêu hãnh khoe “Việt Nam là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về số lượng giáo sư, tiến sĩ”.
Tính sơ sơ Việt Nam ta hiện nay với gần 90 triệu dân thì
đã có tới 24.000 tiến sĩ , 9.000 giáo sư. Nếu chia bình quân số người có học vị
này so với thế giới thì quả là đáng tự hào. Nhưng đáng buồn thay, sau con số
hoành tráng về trí thức này là cả một thực tế thê thảm về trình độ học vấn của
Việt Nam ta cũng như trình độ thực của các nhà khoa học nước ta.
Theo con số được công bố thì Việt Nam có tới gần 400
trường đại học, cao đẳng thuộc các ngành nghề, các viện tương đương… nhưng tệ
hại thay không có trường nào lọt vào danh sách 500 trường đại học danh giá trên
thế giới. Đã gọi là các nhà trí thức là tiến sĩ, giáo sư thì tiêu chuẩn đầu
tiên là công trình nghiên cứu khoa học hằng năm và quy chuẩn nhất là các nghiên
cứu này được đăng ký bằng sáng chế tại Mỹ.
Tình hình này ở Việt Nam ta ra sao? Với 33.000 nhà khoa
học nhưng giai đoạn 2000-2006 nước ta vẻn vẹn có 19 bằng sáng chế. Giai đoạn
2007-2010 Việt Nam chỉ còn 5 bằng sáng chế. Năm 2011 số bằng sáng chế của Việt
Nam ta đăng ký tại Mỹ lại là con số 0 tròn trĩnh. Cũng trong năm 2011 chưa nói
đến các nước có trình độ kinh tế hiện đại, tri thức tiên tiến như Nhật Bản, Hàn
Quốc… Mà chỉ so sánh trong khu vực thì vùng lãnh thổ Đài Loan với 23 triệu dân
có tới 8.781 bằng sáng chế. Còn các nước vùng Đông Nam Á thì năm 2011 cũng là
năm bội thu về số lượng bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ. Singapore với 4,8 triệu
dân có tới 647 bằng. Malaysia với 27,9 triệu dân có 161 bằng, Thái Lan với 68,1
triệu dân có 53 bằng….
Nguyên nhân của thực trạng đáng buồn này do đâu? Nước ta
hiện nay ra ngõ không chỉ gặp nhà thơ mà còn gặp giáo sư, tiến sĩ hay thạc sĩ.
Nhưng trong đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đó thì có đến hơn 70% không dính dáng gì
đến nghiên cứu khoa học, thậm chí cả đời không viết một bài báo nào có tính
khoa học. Đa số các vị có bằng cấp này đều làm chức vụ hành chính. Ông Phạm Bích
San, Tổng thư ký Liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật Việt Nam đã ngao ngán
nhận xét rằng: Chúng ta gần như không có ai có nghiệp khoa học… quên mình vì
khoa học được ghi nhận bằng các giải thưởng quốc tế tầm cỡ”.
Hình như sau hàng loạt nghị quyết khuyến khích sử dụng
bằng cấp, đào tạo 20.000 tiến sĩ đã khiến cho thị trường bằng cấp càng có đà
phát triển. Người ta tìm mọi cách để có được tấm bằng cao học, có học hàm học
vị làm điểm tựa tiến thân thay vì xả thân cho sự đào tạo, nghiên cứu nghiêm
chỉnh. Trên danh thiếp, trong lời giới thiệu tại hội nghị, hội thảo, người ta
sính và coi như mốt thời thượng giới thiệu học vị đi liền với chức sắc. Những
vụ việc phát giác ông thứ trưởng, ông giám đốc sở, ông vụ trưởng nọ kia dùng
bằng giả… đã trở thành phổ biến hơn ở nước ta. Phải chăng chính sự yếu kém của
các nhà trí thức Việt Nam như vậy nên chẳng những nền giáo dục của ta đang là
một nền giáo dục yếu kém, nhiều bất cập nhất mà Việt Nam cũng là một quốc gia
có vị trí thấp trong thang bậc trí tuệ toàn cầu (hạng 76 trên 141 quốc gia được
đưa vào xếp hạng).
Nghĩ lại một thời không xa trí thức thế giới nghiêng mình
khâm phục trí tuệ và công trình của những nhà trí thức lớn của Việt Nam như
Giáo sư Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng… Chúng ta càng lo lắng khi
căn bệnh “trí thức lỏng” của nước ta vẫn ngày càng phát triển và chưa có biện
pháp nào hữu hiệu ngăn chặn. Nạn háo danh đang hành xác trí thức!
Nguyễn Hiếu
No comments:
Post a Comment