Vũ Ánh
Friday,
March 01, 2013 6:39:54 PM
Ðời tư của những lãnh tụ chính trị thuộc đảng Cộng Sản Việt Nam
được người dân thường xem là những thâm cung bí sử. Mà đã gọi là thâm cung bí
sử thì chắc chắn nó được che giấu rất kỹ và những gì mà người ta biết đến hay
nói đến thường không được căn cứ vào tin mà vào lời đồn đại.
Tác
giả của “Bên Thắng Cuộc” cho biết ngay từ đầu tác phẩm rằng anh không viết
chuyện thâm cung bí sử mà chỉ ghi chép những chuyện xảy ra trong đảng Cộng Sản
Việt Nam theo thứ tự của từng vấn đề. Nhưng khi nói đến cuộc đời của Lê Duẩn,
tác giả đã không thể bỏ qua được một phần nhỏ những riêng tư của ông ta trong
lãnh vực tình yêu, gia đình và hôn nhân. Tuy chỉ chiếm khoảng 9 trang trong tác
phẩm dầy đến 680 trang, tiểu đề “Lê Duẩn và Mối Tình Miền Nam” là một trong
hàng trăm câu chuyện về đời tư của nhân vật này được nhiều người coi là “khá
hấp dẫn chẳng khác gì những chuyện thâm cung bí sử”.
Theo
lời tác giả “Bên Thắng Cuộc”, Lê Duẩn sinh năm 1907 tại Triệu Phong thuộc tỉnh
Quảng Trị trong một gia đình thợ nghèo. Ông ta chỉ học đến lớp 4 rồi tự ý bỏ
học. Nhưng lớp 4 ở nhà quê vào thời kỳ đó vẫn được người trong làng coi là “hay
chữ”, nên dân làng thường gọi Lê Duẩn là “cậu thông Nhuận”. Tham gia hoạt động
từ thời Hội Thanh Niên Cách Mạng, Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên
đầu tiên của đảng Cộng Sản Ðông Dương. Tuy nhiên, ngày nay một câu hỏi được đặt
ra là: “Với trình độ học lớp 4 như vậy mà làm sao họ Lê có thể thành công trong
những hoạt động dẫn dắt cả một Xứ bộ ở miền Nam Việt Nam?” Thực ra, có nhiều sử
gia cố tìm cách giải thích sự kiện này, nhưng họ đều không tìm ra câu trả lời,
ngoại trừ một vài tác giả thời còn trẻ vốn là chuyên viên tình báo thuộc phái
bộ MAC-V, trong đó có Harry D. Felt viết trong một phúc trình gởi cho Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ từ Sài Gòn vào cuối năm 1962: “...Họ (VC) được huấn luyện ngay tại
chỗ thành thử họ quen chịu đựng khó khăn, khổ sở. Những thắng lợi gần đây cho
thấy, Việt Cộng đã vượt qua được những thử thách do kế hoạch Ấp Chiến Lược tạo
ra và đây là điều chúng ta (Mỹ) cần lưu tâm...” (The Pentagon Papers, Beacon
Press-Boston)
Năm
2002, khi trở về Mỹ sau chuyến đi dài ngày ở Việt Nam để thu thập tài liệu viết
cho xong tác phẩm “Bare Feet, Iron Will-Conversation With The Enemy” (tạm dịch:
Chân đất, Ý chí sắt thép-Ðối thoại với kẻ thù), Luật Sư James G. Zumwalt, cháu
nội của Ðô Ðốc Zumwalt, tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, đồng thời là
một cựu hải quân đại tá trong Hải Quân Hoa Kỳ đã đưa cho tôi bản thảo gần như
toàn phần của tác phẩm này, chỉ còn một phần rất nhỏ không quan trọng lắm ông
viết chưa xong. Ông yêu cầu tôi dịch tác phẩm này ra tiếng Việt để ông có thể
xuất bản cùng một lúc với phần Anh ngữ. Hai ngày sau khi đọc xong, tôi gặp tác
giả và nói rằng loại tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam như “Bare Feet, Iron
Will” tôi dịch khá nhanh chỉ mất khoảng 3 tháng. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh nội
cái tựa không thôi, James Zumwalt cũng đã phải đi dưới hai lằn đạn tại một cộng
đồng Việt Nam còn rất nhạy cảm khi nói đến cuộc chiến kết thúc ngày 30 Tháng Tư
1975. Hơn nữa, trong tác phẩm, một vài cuộc phỏng vấn một số sĩ quan và tướng
lãnh trong quân đội Cộng Sản Việt Nam có nội dung cho thấy họ tỏ ra hãnh diện
đã có thể dùng gạo rang, muối và nước lã chống Mỹ trường kỳ và họ đã thắng. Hợp
đồng dịch thuật không thành đạt được và tôi mất liên lạc với ông đã lâu rồi nên
cũng không biết “Bare feet, Iron will” đã xuất bản hay chưa. Tuy nhiên, tác
phẩm này cũng cho tôi thấy một cách nhìn khác riêng biệt của giới quân sự Mỹ
giải thích một phần nào lý do thắng trận của người Cộng Sản, nhưng đã không thể
thắng được trong việc quản lý đất nước và phát triển kinh tế chỉ vì trình độ
học vấn thấp thời làm “cách mạng” không đáp ứng được những yêu cầu về quản lý
và làm ăn kinh tế ở “thời bình”.
Ðiều
này thực cũng chẳng khác gì trong cuộc chiến bí mật ở miền Nam Việt Nam, Lê
Duẩn với tư cách bí thư Xứ Ủy Nam Bộ sau khi từ Côn Ðảo trở về sau Cách Mạng
Tháng Tám đã nhiều lần thoát hiểm mật thám Tây và lực lượng an ninh của chế độ
Ngô Ðình Diệm nhiều lần, nhưng lại không thể thoát ra khỏi được mắt lưới tình
ái. Khi Lê Duẩn qua đời vài năm sau 30 Tháng Tư 1975, dư luận bàn tán rất nhiều
về những người vợ của một trong những tổng bí thư khét tiếng nhất trong đảng
CSVN. Nhưng sự thực ông có bao nhiêu vợ thì chưa có một tài liệu nào khả dĩ rõ
ràng như được trình bày trong tiểu đề “Lê Duẩn và Mối Tình Miền Nam” trong “Bên
Thắng Cuộc”. Theo tác giả của “Bên Thắng Cuộc”, dựa theo cuộc phỏng vấn bà Lê
Thị Muội con gái của Lê Duẩn với bà vợ đầu ở quê tên là Lê Thị Sương và cuộc
phỏng vấn ông Lê Kiên Thành, con trai của ông Duẩn với bà vợ thứ hai là bà
Nguyễn Thụy Nga, người ta mới được biết một cách chính thức là Lê Duẩn ít nhất
cũng có hai vợ chính thức và bà Nga, người vợ lẻ, chính là người mà tác giả gọi
là kết quả “mối tình miền Nam” của họ Lê.
Tác
giả “Bên Thắng Cuộc” gọi việc ông Lê Duẩn bí thư Xứ Ủy Nam Bộ lấy bà Nguyễn
Thụy Nga là kết quả của một tình yêu cho nó nhẹ đi thôi vì trong thế giới Cộng
Sản, nói đến chuyện công khai cũng đã khó rồi huống chi đây lại là chuyện
“không nên nói ra” mà vẫn cứ phải nói ra. Nó cũng bàng bạc một màu giống như
câu chuyện được Trần Mạnh Hảo trình bày trong “Ly thân”: Ðảng bảo bỏ là phải
bỏ, đảng bắt lấy là phải lấy! Bà Nguyễn Thụy Nga là con gái người chủ bút một
tờ báo viết bằng tiếng Pháp tên là “La Tribune Indigène”. Năm 14 tuổi cô bé Nga
đã theo “mấy chú” đi hoạt động “cách mạng” và trót yêu “một đồng chí đã có gia
đình”, đó là Nguyễn Văn Trấn, một trong những người Cộng Sản lãnh đạo cuộc cướp
chính quyền Sài Gòn năm 1945 từ tay người Pháp. Năm 1948, mối quan hệ tình ái
của hai người bị lộ và bị tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nguyễn Thụy Nga bị
buộc phải chuyển về Sài Gòn công tác để cắt lìa hai người, một kiểu ép buộc mà
người Cộng Sản hay làm. Vẫn theo tác giả “Bên Thắng Cuộc”, bà Nga lúc ấy đang
là nữ đoàn trưởng Phụ Nữ Cứu Quốc và Lê Duẩn gặp bà Nga vào dịp họp tỉnh ủy
nghe được câu chuyện có hỏi bà Nga thì được trả lời:
“Lên Sài Gòn đối với
tôi là một công tác rất mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận,
không băn khoăn gì, nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu (Nguyễn Văn Trấn)
thì khó mà làm được. Xa nhau cũng được, nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt
buộc”.
Tư
chất của người phụ nữ này lẽ ra phải được tôn trọng. Tuy nhiên theo tác giả Huy
Ðức thì Lê Duẩn tuy không phát biểu gì vào lúc đó, nhưng khi trở về Xứ ủy gặp
Lê Ðức Thọ thì ông ta lại nói: “Nếu có cưới vợ thì tôi cưới người có tính chung
thủy như chị Nga”. Ít lâu sau Lê Ðức Thọ tìm xuống Cần Thơ để thực hiện “lệnh”
của sếp và ông ta nói thẳng: “Anh Ba (Lê Duẩn) muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng
anh ấy đi... Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khỏe làm
việc, đó cũng là một nhiệm vụ... sự sáng suốt của anh ấy có lợi cho cách
mạng...” Rõ ràng, đây không phải là cách thuyết phục của một “ông mai” mà là ép
duyên chỉ vì “đồng chí” Lê Duẩn muốn và ý muốn thiếu trong sạch này được che
lấp bằng quyền lợi của đảng. Tỉnh ủy Cần Thơ ép Nguyễn Thụy Nga bỏ Nguyễn Văn
Trấn, một người có gia đình, nhưng lại ép cô gái này lấy một cán bộ Cộng Sản
“gộc” cũng đã có gia đình. Theo tôi, không còn gì thô lậu và “thiếu đạo đức
cách mạng” bằng trò ép duyên này! Nhưng chưa hết. Theo lời bà Nga, có lần bà
hỏi thẳng Lê Duẩn rằng nếu ông ta lấy vợ rồi, sau này về gặp gia đình thì phải
giải quyết sao đây? Họ Lê nói tỉnh bơ:
“Anh cưới vợ trước
đây là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà sau đó có đưa ra Hà Nội ở
một thời gian, nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà,
anh nói chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp gì được
cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn
phong kiến, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi
xa có lấy thêm vợ thì phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải
phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn
chúng mình có đi hoạt động cách mạng, có gần nhau gũi nhau, chắc không có gì
khó khăn lắm”.
Ðó
là thứ hôn nhân ba vạ của một trong những lãnh tụ lớn của đảng Cộng Sản Việt
Nam, một người đời tư đã có nhiều bùn nhưng lại chỉ coi đời tư người khác mới
có vết hoen ố? Năm ấy Lê Duẩn đã 41 tuổi còn tuổi thực của bà Nga chỉ bằng một
nửa số tuổi của ông ta, nhưng cuộc hôn nhân này đã mang lại cho bà Nguyễn Thụy
Nga nhiều rắc rối và đau đớn nhất. Chính bà Nga đã thừa nhận trong cuộc hôn
nhân hơn ba thập niên của bà chỉ có 3 năm là sống hạnh phúc. Tất cả còn lại đều
là một cuộc sống bé mọn của người phụ nữ bị đảng ép buộc bỏ mối liên hệ tình ái
mà đảng cho là thiếu đạo đức với một đảng viên Cộng Sản nhưng lại buộc phải
chấp nhận mối liên hệ tình cảm hoàn toàn phi đạo đức với một đảng viên lớn
tuổi, lớn cấp khác. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra một so sánh nhẹ nhàng và
khéo léo, nhưng nó như một vết chém hằn sâu trang sử hôn nhân và tình ái mờ ám
của các lãnh tụ đảng, từ Hồ Chí Minh cho tới một số thuộc hạ thân cận của ông
ta:
“Lê Duẩn chọn vợ vì
ông ta chứng kiến đức thủy chung mà bà Nga dành cho người khác, còn bà Nga thì
thừa nhận là đã chọn Lê Duẩn qua đạo đức và tình cảm lớn lao mà ông dành cho
đồng chí, đồng bào”.
Nhưng
nếu chúng ta đọc kỹ so sánh này thì đây chính là một lời ám chỉ nặng nề về cái
gọi là “đạo đức cách mạng” mà những người Cộng Sản thường rêu rao. Thực ra, thứ
đạo đức này chỉ là một bức bình phong che đậy những chuyện phi đạo đức trong
đảng mà thôi. Năm 1955, bà Nguyễn Thụy Nga nghe lời chồng mang con tập kết ra
Bắc và việc đầu tiên mà bà phải đối phó là giải quyết sự liên lạc êm ấm với gia
đình nhà chồng và bà vợ cả của Lê Duẩn là bà Lê Thị Sương. Chuyện này đáng lẽ
có thể đã ổn thỏa, nếu không có sự can thiệp của các “đồng chí lớn” của Lê
Duẩn. Bà Nga kể lại trong cuộc phỏng vấn: “...Anh Phạm Hùng và chị Nguyễn Thị
Thập nói với tôi, trước kia vì sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây giờ
cũng vì sự nghiệp của anh, chị nên chủ động ly dị để anh làm tròn nhiệm vụ”.
Khi ấy Quốc Hội vừa có luật Hôn Nhân và Gia Ðình qui định chế độ “một vợ, một
chồng”.
Khi
Lê Duẩn được lệnh trở ra Bắc, ông ta vui mừng được gặp lại người vợ trẻ miền
Nam, nhưng ngay lập tức lại phải đương đầu với áp lực phải bỏ bà Nga. Họ Lê tức
quá nói với vợ: “Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, bây giờ trong hoàn cảnh
nào chúng ta bỏ nhau. Có làm tổng bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau trong lòng anh
không bao giờ yên ổn. Người Cộng Sản thì phải có thủy có chung, có tình, có
nghĩa” (?)Lê Duẩn ném cái boomerang đi qua vụ gạt bỏ tình nghĩa với người vợ cả
là bà Sương, nay cái thanh gỗ thường được thổ dân Úc dùng làm vũ khí săn thú đã
quay ngược lại chính ông ta. Lê Duẩn dẫn bà Nga sang Hội Phụ Nữ để trình bày,
nhưng trong hồi ký, bà Nga cho biết hội phản đối kịch liệt và bà trở thành đối
tượng bị hội ghét bỏ, bị cắt tất cả chế độ phúc lợi y tế (trong đó có chế độ
được nằm bệnh viện Việt-Xô, một bệnh viện tối tân nhất vào thời bấy giờ). Huy
Ðức nhấn mạnh thêm về những hậu quả ê chề khác mà bà Nguyễn Thụy Nga phải nhận
chịu giống hệt như những phụ nữ thời phong kiến:
“Những đồng chí của
ông Lê Duẩn như Lê Ðức Thọ người đã mai mối bà Nga cho ông Duẩn giờ đây cũng
câm lặng. Bà Mai Khanh vợ ông Hai Hùng (Phạm Hùng), người chủ hôn thì cùng với
cán bộ khác vào tận Nghệ An vận động các gia đình chống lại bà Nga... Khi ông
Lê Duẩn trở ra Bắc, cũng chỉ thỉnh thoảng bà Nga mới được về căn nhà riêng dành
cho ông ở số 6 đường Hoàng Diệu, Hà Nội để thăm chồng. Hơn nữa, bà Nga lại còn
phải đối phó với cô Hồng con gái của ông Duẩn với bà vợ trước lúc đó đã là sinh
viên. Theo cách kể lại của bà Nga, cô sinh viên này không hề có một chút thông
cảm nào để bố mình giải quyết gia đình vợ nọ, con kia. Cuối năm 1957, Lê Duẩn
đành phải thu xếp cho bà Nga đi công tác ở Bắc Kinh, vừa nuôi 3 đứa con, vừa đi
học. Năm 1962, bà Nga được trở lại Hà Nội nhưng sau đó bị điều sang làm việc
tại báo Hải Phòng, thỉnh thoảng mới có dịp lên Hà Nội thăm chồng và vẫn bị cô
Hồng khinh miệt và làm tình làm tội. Bà Nga kể lại: “Nhiều lần tôi muốn treo cổ
tự tử ở cổng nhỏ nhà số 6 đường Hoàng Diệu. Nhưng còn anh (Lê Duẩn) còn mấy đứa
con tôi sẽ ra sao. Anh sẽ mất uy tín, sẽ đau khổ. Vì đảng, vì tình thương mà
tôi đã vượt qua”.
Trong
một chế độ thiếu tự do và con người bị câu thúc, mức độ hoài nghi lan tràn như
Việt Nam, khó lòng mà biết được thực sự người ta nghĩ gì và suy nghĩ ấy có
giống như khi người ta nói hay viết không? Nhưng rõ ràng những người như Lê
Duẩn, Lê Thị Sương, Nguyễn Thụy Nga, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ... cũng vẫn chỉ là
những con người bị mắc vào cái cạm bẫy vĩ đại của chủ nghĩa Cộng Sản hoang
tưởng. Trong chốn tù đày của cạm bẫy ấy, đàn áp không những đã trở thành một
công cụ để người Cộng Sản tước đoạt mọi thứ quyền của con người mà còn là một
công cụ chuyên chính ngay với cả tình cảm con người, tình yêu và hôn nhân.
No comments:
Post a Comment