15-3-2013
Tôi bị bắt với một lý do rất...
cười: tọa kháng tại nhà với biểu ngữ (được phía Cơ quan An ninh điều tra kết
luận rằng mang nội dung xấu): “Trường Sa - Hoàng Sa là của Việt Nam. Phản
đối công hàm bán nước ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng”. Hơn 16 tháng sau
ra tòa, tôi nhận bản án 4 năm tù giam, thêm 3 năm quản chế về cái gọi là tội
“Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” mà không hề
dính dáng đến việc “tọa kháng”, hành vi trực tiếp được nhà cầm quyền làm lý cớ
bắt bỏ tù.
Hai chứng nhân “quan trọng” được
đưa từ Thanh Hóa vào làm công cụ buộc tội bị cáo. Ông Nhiểm, ông Kính trông tội
nghiệp với bộ mặt méo mó, khắc khổ ngồi lọt thỏm, bị bao vây giữa vô vàn những
mật vụ dưới hàng ghế dự khán, thay vì ở vị trí dành cho người làm chứng theo
quy định một phiên tòa: “Nếu thời gian quay trở lại hoặc có cơ hội khác, tôi
vẫn sẽ giúp đỡ họ - những ngư dân Thanh Hóa - dù tôi biết trước có thể những
con người này sẽ quay lại kết tội tôi. Họ buộc phải làm thế. Và tôi sẵn sàng tha
thứ cho họ.” Tôi đã nói những lời này trước tòa dành cho những ngư dân Thanh
Hóa tôi đã gặp và giúp đỡ hồi cuối tháng hai năm 2008.
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này,
tôi sẽ không tường thuật lại chuyến đi Thanh Hóa cùng Ngô Quỳnh. Bạn đọc nào
quan tâm và muốn tìm hiểu sự thật, xin tìm đọc bài viết “Uất ức - biển ta
ơi!” tôi viết năm 2008. Tôi tin rằng, nếu ai còn là người Việt Nam thì
không thể không đau xót trước việc đồng bào mình bị bắt giết ngay trên lãnh hải
của Tổ Quốc mình, cũng như không thể phủ nhận Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt
Nam. Chỉ vì vạch trần và tố cáo một sự thật bị Đảng và Nhà nước giấu nhẹm, chỉ
vì đòi quyền lợi chính đáng cho những nạn nhân, ngư dân Thanh Hóa mà tôi và Ngô
Quỳnh đã bị tước mất tự do - dù là một thứ tự do đang hấp hối.
Biệt giam:
Những ngày đầu, tôi bị giam chung
với các nữ tù hình sự khác. Trong cuộc vật lộn mưu sinh, trở thành đủ loại tội
phạm (họ vẫn thường tự hào rằng phải rất bản lĩnh mới dám thách thức pháp luật)
thì sự xuất hiện của một cô gái nhỏ bé bị gán tội “chống Nhà Nước...” là điều
ngoài sức tưởng tượng. Từ ngạc nhiên, tò mò rồi thiện cảm, chúng tôi trở nên
gần gũi với nhau. Được vài hôm, những ánh mắt thân thiện, cảm mến biến mất.
Thay vào đó là thái độ dè dặt, lảng tránh pha chút sợ sệt. Chính sách cô lập
bắt đầu có hiệu quả!
Sắp đến giờ cơm chiều. Tiếng ổ khóa
vang lên chát chúa. Tiếp đó là giọng nói lạnh tanh của quản giáo: “Phạm Thanh
Nghiên chuẩn bị nội vụ!”. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía tôi, lo lắng, thương cảm,
hoảng hốt: “Chết rồi, bị đi ép cung rồi”, “chị ơi! Biệt giam rồi.”, “khổ thân,
người bé như cái kẹo, chịu sao nổi cháu ơi”. Mỗi người góp một tí, từ chai mắm,
gói lạc, ít bột canh, cuộn băng vệ sinh... tất cả được đùm vào một túi ni-lông,
ấn vội vào tay tôi. Tôi không đủ thời gian đùn đẩy. Nhận cũng tốt. Đây sẽ là
vốn liếng giúp tôi “cầm cự”, chờ đợi đến lúc nhận được quà tiếp tế từ gia đình.
Tôi không sợ biệt giam, không sợ bị ép cung. Tôi sợ những ánh mắt thương cảm
của họ. Những tình cảm rất con người mà vì một sức ép đáng sợ nào đó, họ đã
buộc phải thủ tiêu đi.
Tôi bước ra cửa, không ngoái lại
nhìn. Sau lưng, vài giọt nước mắt lặng lẽ rơi. Nhà tù, thì ra vẫn còn chỗ cho
tình thương yêu và lòng nhân ái.
Dẫn tôi đi là người cán bộ tên C.
Sau này tôi được nghe nhiều chuyện về ông ta, chủ yếu thành tích làm giàu bất
chính và đánh tù. Tôi cắp túi quần áo, chân đất đi trên những con hẻm nhếch
nhác vì mưa phùn, qua những dãy nhà giam lạnh ngắc và cũ kỹ. Trong những bức
tường lặng câm kia là những sự chờ đợi và tuyệt vọng. Chờ đợi để được phán xử
không theo cách của con người, rồi hiến mình cho sự khổ ải và hao mòn trong các
trại cải tạo.
Khu giam giữ mới có khoảng sân khá
rộng. Sau khi làm các thủ tục cần thiết, C giao tôi cho đồng nghiệp. Tôi đi
theo K, cảm giác như đang bị nuốt vào một đường hầm. Lần đầu tiên kể từ khi bị
bắt, tôi mới thực sự thấy hết cái âm u của chốn ngục tù. Chỉ khi dừng lại, tôi
mới biết mình đang đứng trước một cánh cửa. Cửa mở, hai đồng tử của tôi giãn
ra: đây là nơi dành cho con người ư?
Cái gọi là buồng giam rộng chừng
6m2. Hai bệ xi-măng đối diện nhau (chừa một lối đi hẹp ở giữa, tù quen gọi là
“xa lộ”) dùng làm chỗ nằm. Từ cửa đến chân bệ nằm còn khoảng trống nho nhỏ để
đồ ăn. Trong buồng không có nhà vệ sinh nên phải dùng bô. Chỗ để bô cách chỗ để
đồ ăn chừng 3 bước chân. Một trong hai bệ nằm có gắn cố định một cùm sắt, dùng
để cùm chân những người tù bị kỷ luật hoặc tử tù chờ ngày thi hành án. Tôi vào
sau L vài ngày, đương nhiên phải nằm chung với cái cùm. L thường mắng tôi vì
tội hay cho chân vào cùm. Bảo tôi không chịu kiêng kỵ, có ngày bị cùm thật cũng
nên. Hàng ngày tôi đi bộ dọc trên “xa lộ”, coi như tập thể dục. Đoạn đường ngắn
mấy bước chân, đi vài vòng phải nghỉ một lần để khỏi chóng mặt.
Mỗi ngày hai lần: sáng và chiều,
công an mở cửa cho tù nhân ra ngoài làm vệ sinh cá nhân và lấy cơm. Mỗi lần
chừng 20 đến 30 phút. Hầu như ngày nào tôi cũng phải đi cung nên mọi việc, từ
giặt giũ, đổ bô, lấy cơm, rửa bát… L phải kiêm hết. Có hôm, chưa làm vệ sinh
xong, điều tra viên đã đứng đợi ngoài cửa. Chắc chỉ có tù nhân lương tâm chúng
tôi mới phải trải qua tình trạng ngồi bệ xí trong sự chờ đợi và thúc giục của
cả cai tù lẫn điều tra viên mà thôi. Gần 4 tháng biệt giam, tôi phải đi cung
hàng chục lần, chưa kể thời gian ở buồng chung hơn một năm. Chuyện này xin được
kể trong một dịp khác.
L có tật xấu, đi ngoài vô tội vạ,
không theo giờ giấc. Nhiều hôm cứ đóng cửa buồng cô nàng mới đi, mỗi lần như
thế lại chữa ngượng: “Em luyện mãi mà không được, cứ nhìn thấy công an là nó
lại thụt vào. Hình như c*t sợ công an chị ạ”. Hai cái bô chứa đầy “sản phẩm”
của L. Mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Đã thế, cô nàng còn lên lớp tôi: “Chị phải
uống thật nhiều nước mới tốt cho sức khỏe, người đâu mà gầy đét, trông chán
lắm”. Tôi bảo: “Có hai cái ngai vàng, mày ngự cả hai, chị uống nhiều nước thì
chứa vào đâu?”. Cô nàng nhe hàm răng ám khói thuốc cười trừ. Nhìn L, tôi thấm
thía hai câu thơ (được cho là của ông Hồ): “Cửa tù khi mở không đau bụng, đau
bụng thì không mở cửa tù”.
Cánh cửa sắt, may quá có sáu lỗ
thông hơi (to bằng quả trứng chim cút) - thứ duy nhất làm chúng tôi tạm quên
mình đang ở trong một cái hộp. Hàng ngày được ra ngoài, tôi thường vãi cơm ra
sân để dụ lũ chim sẻ đến. Qua sáu cái lỗ thông hơi quý giá đó, tôi và L luân
phiên nhau chiêm ngưỡng, ngắm nghía chúng. L ước: “Giá biết bay như chúng, em
sẽ bay về ôm hôn thằng Cu cho thật đã”. Rồi như tiếc rẻ “Nhưng làm con chim bay
được thì lại không lắc, không phê được. Làm người như em, tuy tù tội nhưng được
biết mùi đời. Sướng thân! Như chị thì thiệt, chả biết đếch gì. Chán chết”. Tôi
không thích tranh cãi với L những lúc như thế. Lũ chim vô tâm, chúng nhặt nhạnh
những hạt cơm cuối cùng rồi bay đi, mặc kệ tôi ngẩn ngơ. Không có cách nào gọi
chúng lại. Tôi tủi thân, đâm ra giận chúng, hôm sau không vãi cơm cho chúng
nữa. Theo thói quen, lũ chim bay đến ngơ ngác, tìm kiếm rồi bỏ đi. Tôi buồn! Từ
đó không dám tự trừng phạt mình nữa.
Một lần đi cung:
Một vật gì giống như con rắn nằm lù
lù giữa sân. Vừa nhận ra thứ đó dành cho mình, một luồng hơi lạnh chạy dọc sống
lưng. Sau cái rùng mình, mặt tôi nóng ran, hai thái dương giật liên tục. Không
thể để cơn phẫn nộ được dịp bung ra. Tôi sẽ luồn chân vào đó. Phải nếm trải hết
mọi cay đắng của người tù. Tôi đứng im, ngoan ngoãn cho K xiềng chân mình. Nét
ái ngại lộ rõ trên gương mặt anh ta: “Chị Nghiên đi chậm thôi, sẽ đỡ đau”. Tôi
hít một hơi thở sâu chờ K mở cửa. Ánh mắt tôi đập vào ánh mắt người điều tra
viên. Dù cố tỏ ra tự nhiên, nhưng tôi biết anh ta chứ không phải tôi đang bị
chi phối bởi cái xiềng chân. Tôi không đi chậm như lời khuyên của K. Bị thôi
thúc bởi lòng kiêu hãnh, tôi bước thật nhanh bất chấp hai vòng xích đập vào mắt
cá chân đau điếng. Tôi không cho phép anh ta có cơ hội thấy tôi trong bộ dạng
chậm chạp và đáng thương. Chỉ thể hiện ở bước đi thôi chưa đủ, tôi bông phèng:
- Này anh, giúp tôi một việc được
không?
- Việc gì chị?
- Nhờ anh đăng ký với kỷ lục
ghi-nét, công nhận tôi là người phụ nữ có cái lắc chân to và độc nhất thế giới
nhé?
Bị bất ngờ, anh ta im lặng. Sau một
hồi, tính háo thắng trỗi dậy, anh ta trả đũa:
- Nếu bây giờ tôi bắc thang cho chị
trèo tường về, chị có về không?
- Sao nghiệp vụ anh kém thế?
- Gì cơ?
- Tôi bảo nghiệp vụ anh kém vì anh
đi điều tra tôi mà không hiểu gì về tôi. Này nhé, tôi vào đây một cách đường
hoàng thì cũng đường hoàng rời khỏi đây. Không phải các anh tùy tiện bắt rồi
thả vô tội vạ là được.
Có lẽ anh ta thấy tiếc về câu hỏi
vừa rồi.
Một cán bộ trực trại và một điều
tra viên khác đã chầu sẵn ở buồng hỏi cung. Chờ tôi ngồi xuống, trực trại rướn
người qua mặt tôi, kéo thanh sắt vốn được bắt vít cố định nơi tay vịn, khóa
lại. Động tác rất dứt khoát với vẻ mặt rất nghiêm trọng. Chắc đấy là thứ công
cụ được phát minh ra để bảo vệ các nhân viên điều tra khi hỏi cung những tên
tội phạm thuộc diện đặc biệt nguy hiểm. Thế ra, tôi được liệt vào loại “đặc
biệt nguy hiểm” cơ đấy. Tôi quan sát việc liên quan đến mình như một kẻ thực sự
bị thuần phục. Xong việc, viên trực trại lui về đứng phía sau tôi (chắc sẵn
sàng tung đòn cứu đồng đội nếu đối tượng manh động). Hai điều tra viên đặt hồ
sơ lên bàn:
- Chúng ta bắt đầu làm việc!
Tôi lơ đễnh nhìn lên trần nhà.
- Chúng ta làm việc thôi chị
Nghiên.
- Anh bảo gì cơ?
Vẻ ngoan ngoãn lúc đầu của tôi
khiến họ không chuẩn bị tâm lý đối phó cho sự phản công.
- Chúng ta vào việc…
- Làm gì có chuyện ấy. Các anh nghĩ
tôi sẽ làm việc với các anh trong tình trạng này sao?
- Đây là quy định của…
- Là quy định của các anh thôi.
Nguyên tắc của tôi là không làm việc với các anh trong tình trạng này.
Hai điều tra viên nhìn tôi chằm
chằm. Tôi tiếp tục nhìn lên trần nhà, lưng dựa ra sau, các ngón tay gõ gõ vào
thanh sắt chắn ngang trước mặt, chân đung đưa khiến cái xiềng cọ xuống nền nhà
phát ra thứ âm thanh khô khốc, nghe đến sốt ruột. Cuối cùng, một trong hai
người điều tra viên phải ra hiệu cho trực trại mở xiềng chân và thanh sắt chắn
ngang ra.
Tôi thôi nhìn lên trần nhà:
- Đây sẽ là lần đầu và cũng là lần
cuối tôi cho phép các anh làm thế. Nếu việc này còn tái diễn thì các anh sẽ chỉ
nhận được một thứ duy nhất từ tôi, đó là sự im lặng. Mong các anh nhớ cho.
Trở về buồng giam, tôi mệt mỏi nằm
vật xuống. Nhìn L với đôi mắt đỏ hoe, tôi đâm cáu. Cô nàng mặc cho tôi mắng mỏ,
cứ sấn vào xoa xoa bóp bóp chỗ đau cho tôi. Tôi hất hủi cô nàng để khỏi phải
thương hại mình. Tôi nghĩ đến chú Nghĩa, đến Ngô Quỳnh và các anh em khác bị
bắt cùng đợt với tôi. Không biết họ bị đối xử ra sao? Nhưng tôi tin, dù ở trong
hoàn cảnh nào thì những người anh em ấy (sẽ không cáu gắt bạn tù vô lối như
tôi) mà sẽ ngạo nghễ và nở nụ cười nhân ái vì nhà tù là sự lựa chọn “bất khả
kháng”, là cánh cửa duy nhất để đến với tự do.
Viết sau những ngày mới ra tù.
No comments:
Post a Comment