Walter Russell Mead
Trần
Ngọc Cư
dịch
5-5-2012
Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton sẽ đến Bắc Kinh có lẽ vào thời điểm gay cấn nhất
trong quan hệ Mỹ-Trung kể từ khi Richard Nixon bắt tay Chu Ân Lai trong chuyến
viếng thăm lịch sử tại một quốc gia mà nhiều người Mỹ bảo thủ lúc bấy giờ còn
gọi là Trung Hoa Đỏ (Red China).
Trong
mùa Thu qua, chính quyền Obama đã thực hiện một cuộc cách mạng ngoại giao ngoạn
mục trong khu vực biển châu Á – gồm các quốc gia duyên hải và đối tác thương
mại trên và chung quanh lục địa châu Á, tạo thành một vòng cung chạy dài từ Hàn
Quốc và Nhật Bản, xuống tận Australia và Indonesia, rồi xuyên qua Đông Nam Á
đến tận Ấn Độ và Sri Lanka. Via Meadia [trang blog của Walter Russell Meade]
đã và đang chăm chú theo dõi diễn biến này; đây là một biến cố địa chính trị
quan trọng nhất kể từ vụ Khủng bố 11/9/2001 và, mặc dù diễn biến này đặt cơ sở
trên một loạt chính sách Mỹ chí ít bắt nguồn từ Chính quyền Clinton và được
triển khai thêm trong những năm cầm quyền của Bush, nhưng sự kết hợp chính sách
của Chính quyền Obama tiêu biểu cho một bước ngoặt quyết định trong lịch sử thế
kỷ 21 của châu Á.
Báo
chí truyền thống, vẫn còn mụ mẫm vì uống quá liều lượng cái gọi là ‘nước Mỹ
đang suy yếu’ được rao bán rộng rãi trong những năm gần đây, vẫn chưa nắm bắt
được mức độ táo bạo, đầy rủi ro và nhất là mức độ thành công của chiến lược mới
này: Mỹ đang xây đắp tình hữu nghị [qua các hiệp định] trong khu vực Thái Bình
Dương nhằm đối phó những hậu quả do sự tăng trưởng kinh tế và thế đứng quân sự
của Trung Quốc (Trung Quốc) trong khu vực – mặc dù Mỹ không cố tình bao vây
ngăn chặn nước này. Mỹ đang công khai hậu thuẫn những nước nhỏ có tranh chấp
biên giới với Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] giàu tài nguyên
thiên nhiên và có địa vị chiến lược quan trọng. Mỹ đã công bố triển khai nhiều
lực lượng quân sự mới và ký kết nhiều hiệp ước quân sự mới trong khi nới rộng
mạng lưới quân sự từ Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, và các đảo quốc Thái Bình
Dương) xuống phía nam và đông đến Australia, Singapore và xa hơn nữa. Mỹ tiếp
tục củng cố quan hệ chiến lược với Ấn Độ – cũng là một siêu cường hạt nhân với
dân số trên một tỉ người và là một quốc gia từng công khai tuyên bố rằng kho
nguyên tử ngày càng hùng hậu của mình có mục đích quân bình lực lượng với Trung
Quốc.
Ngoài
ra, Mỹ đã phát động một vòng đàm phán thương mại mới, Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương, hay TTP với mục đích mở rộng thị trường một cách nhanh chóng hơn nữa
giữa một nhóm quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc chưa được mời tham
gia nhóm này.
Đây
là những động thái táo bạo. Nhiều chuyên gia nghiên cứu tình hình Trung Quốc đã
lấy làm bực bội khi chính quyền Obama đưa ra chính sách mới này vào mùa Thu năm
ngoái. Họ e ngại rằng việc Mỹ cố tình đẩy lùi Trung Quốc sẽ giúp củng cố thêm
sức mạnh cho những thành phần cứng rắn tại Bắc Kinh trong việc theo đuổi một
chính sách bài Mỹ triệt để hơn.
Mối
lo ngại này chưa trở thành hiện thực, phần lớn chỉ vì, mặc dù có sự cường điệu
sai lầm về sự vươn dậy không ngừng của Trung Quốc, Bắc Kinh vẫn không làm được
gì trước những vận động mới của Washington. Bắc Kinh càng đẩy mạnh những
tuyên bố chủ quyền của mình trong Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] bao nhiêu thì
các quốc gia khác trong khu vực càng bám lấy Mỹ chặt hơn bấy nhiêu. Nếu
đem bán đổ trữ lượng đôla có được trong tay, Trung Quốc đương nhiên phá hoại
nền kinh tế của mình. Nếu đi theo một đường lối về Syria và Iran siêu cứng rắn
[đối với Mỹ], Bắc Kinh sẽ làm phật lòng luôn cả các lãnh đạo Ả-rập vùng Vịnh,
mà dầu lửa của họ đang giúp các nhà máy Trung Quốc hoạt động. Việc Trung Quốc
tập trận với Nga thậm chí không gây ấn tượng với cả Bắc Hàn, huống hồ làm cho
Washington nao núng.
Mặc dù trên nhiều phương diện Trung
Quốc là một cường quốc đáng nể sợ và mang tiềm năng một cường quốc có tương lai
huy hoàng, Bắc Kinh chưa phải là một địch thủ cân sức với Washington tại châu Á
vào thời điểm này.
Những ảo tưởng và khoa trương của Bắc Kinh chỉ phơi bày sự lúng túng của Trung
Quốc khi cường quốc đích thực của thế giới [tức Mỹ] hạ quyết tâm nâng trận đấu
của mình lên một tầm cao mới trong vùng Lòng chảo Thái Bình Dương (the Pacific
Basin).
Rà
soát chính sách ngoại giao là một điều khó khăn, nhất là khi phải điều chỉnh
các mối quan hệ giữa các cường quốc sao cho thích hợp với tình hình. Từ khi
Chính quyền Obama bắt đầu triển khai các sáng kiến ngoại giao vào mùa Thu năm
ngoái, một số vụ việc đã diễn ra – có vụ việc diễn ra do trùng hợp ngẫu nhiên
(coincidence), có vụ việc chỉ là hậu quả không thấy trước của những bước đi mà
Mỹ đã chọn – thực sự khiến cho chính sách Trung Quốc của chúng ta trở nên vững
mạnh hơn và có hiệu quả hơn hoạch định.
Chính
những hậu quả và những trùng hợp ngẫu nhiên này chứ không phải những chính sách
châu Á thực sự của chúng ta khiến cho chuyến đi Bắc Kinh sắp tới của Bà Clinton
chứa đầy ẩn số. Hãy nhìn vào những gì đã xảy ra kể từ khi chính sách châu Á mới
của Mỹ được phát động năm ngoái: Miến Điện, một trong hai đồng minh khu vực duy
nhất của Trung Quốc, đã rời bỏ hàng ngũ và đang cộng tác chặt chẽ với những đối
tác của Mỹ trong chủ trương Hữu nghị Thái Bình Dương (the Pacific Entente).
Philippines
đã chọn thái độ đối đầu rất rõ ràng đối với ‘bọn xâm lấn’ Trung Quốc trong các
tuyên bố chủ quyền lãnh lải của mình và đã toan tính cầu xin hậu thuẫn trực
tiếp của Mỹ.
Mức
tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và các công ty xuất khẩu Trung
Quốc đang nhận thấy nhu cầu tiêu thụ ở nước ngoài đang suy giảm ngay cả trong
lúc các vụ bất ổn lao động trong nước đang tạo thêm sức ép trên các công ty sản
xuất.
Vụ
Bạc Hi Lai (Bo Xilai) đã phơi bày những rạn nứt trong ban lãnh đạo Trung Quốc,
phá tan mọi hi vọng về một cuộc chuyển giao quyền lực suôn sẻ, chiếu ánh sáng
soi rọi vào tệ nạn tham nhũng đã ăn sâu vào chế độ và vào cuộc xung đột và những
đấu đá đang diễn ra ở trung tâm của giới thống trị chóp bu Trung Quốc. [Mời đọc
thêm http://www.baomoi.com, ND.]
Bây
giờ, cuộc vượt thoát táo bạo vào ban đêm của [nhà tranh đấu khiếm thị] Trần
Quang Thành (Chen Guangcheng) và cuộc chạy đua 500 cây số của ông để đến tị nạn
tại Sứ quán Mỹ vừa gây bực tức vừa làm nhục chính phủ Trung Quốc – chỉ vài giờ
trước khi Ngoại trưởng Clinton đến Bắc Kinh theo thời biểu.
Chắc
chắn rằng một số người Trung Quốc có tinh thần dân tộc chủ nghĩa, kể cả các
nhân vật có quyền cao chức trọng trong các tổ chức nhà nước và quân đội đang
run lên cầm cập vì giận dữ và thất vọng khi chứng kiến những biến cố này. Các
giả thuyết âm mưu (conspiracy theories) đang phổ biến trong vài giới xã hội cho
rằng có bàn tay của Mỹ trong vụ Bạc Hi Lai – dẫu sao, chính lãnh sự quán Mỹ tại
Thành Đô là nơi [Giám đốc Công an Trùng Khánh] Vương Lập Quân (Wang Lijun) đã
chạy đến xin tị nạn và đây là nơi ông đã tiết lộ sự lộng quyền của Bạc Hi Lai
tại Trùng Khánh. Cuộc vượt thoát của Trần Quang Thành đến xin tị nạn tại Sứ
quán Mỹ sẽ đào sâu thêm tính đa nghi và sự phẫn nộ trong một số giới chức; đối
với một số người, rõ ràng là nhà tranh đấu khiếm thị này không thể nào chạy
trốn nếu không có được một hậu thuẫn lớn hơn sự giúp đỡ của một nhóm bất đồng
chính kiến chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thời điểm diễn ra vụ việc trông
ngoạn mục đến nỗi phải kết luận rằng nó nằm trong một âm mưu bí mật, chuẩn bị
lâu dài của Mỹ. Nếu kết hợp những “sự kiện” này với hành vi quyết
đoán của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nhiều người có thái độ nghiêm
túc ở Trung Quốc sẽ rút ra kết luận là Mỹ đang ra sức phá hoại nội tình Trung
Quốc như Mỹ đã từng làm với Liên Xô trước đây. Hơn thế nữa, họ còn
cho rằng chúng ta đã gần kề với sự thành công ở mức độ nguy hiểm – gần kề đến
nỗi Trung Quốc cần phải chống lại mọi khuynh hướng khoan nhượng thêm nữa, rút
lui thêm nữa, vì đây là một vấn đề sống chết của họ.
(Sự thể chỉ trong vòng vài tháng mà một viên chức cao cấp Trung
Quốc và một nhà bất đồng chính kiến hàng đầu Trung Quốc đã phải dùng đến biện
pháp cực đoan là tìm sự che chở của các nhà ngoại giao Mỹ, do đó, đã làm cho
người Mỹ ở khắp mọi nơi có thể ngẫng đầu cao hơn một chút. Bằng cách này hay
cách nọ, chúng ta đã có được tiếng thơm về cách ứng xử lương thiện và thái độ
chính trị can đảm tại Trung Quốc; tiêu chí của chúng ta là phải duy trì thanh
danh đó. Có nhiều khi, tự hào về đất nước mình là điều chính đáng, và đây là
một trong những thời điểm đó).
Những
vụ việc này đang đánh động những vết thương nằm sâu trong ký ức lịch sử của
người Trung Hoa. Nỗi lo sợ bị coi thường, bị làm nhục và bị sai khiến bởi một
phương Tây vừa tự cho mình nắm lẽ phải trong tay vừa có đầu óc đế quốc, một nỗi
lo sợ không bao giờ chịu lắng sâu dưới bề mặt của một Trung Quốc hiện đại, đang
lóe lên nhức nhối. Nhức
nhối hơn nữa là vì mới gần đây thôi Trung Quốc có vẻ như ở thế thượng phong;
nhiều người dân Trung Quốc đã tin tất cả những điều cường điệu về sự trỗi dậy
của Trung Quốc và sự suy yếu của Mỹ, tin một cách triệt để như bất cứ nhóm trí
thức châu Âu nào. Do đó cú sốc khi nhận ra mình đã sai lầm là rất nghiêm trọng.
Trong
khi đó, chiến lược của giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là sử dụng vụ Bạc Hi
Lai và hậu quả gieo gió gặt bão rất đau đớn (the painful blowback) do hành động
phiêu lưu của Trung Quốc trong Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] để nắm thêm quyền
lực và củng cố sự tin tưởng của quốc gia vào đường lối cải tổ trong nước, “vươn
dậy hoà bình” đối với nước ngoài. Ôn Gia Bảo đã sử dụng sự sụp đổ của Bạc Hi
Lai như một cơ hội để tấn công toàn khối dân túy-dân tộc chủ nghĩa-tả khuynh
(the entire left-nationalist-populist bloc) trong hệ thống chính trị Trung Quốc
và để củng cố quyền lực cho cánh hiện đại hóa và cải cách mạnh dạn hơn trong
đảng cầm quyền. Sự sụp đổ của Bạc Hi Lai cũng cho phép giới lãnh đạo chính trị
tái xác quyết quyền lãnh đạo của mình đối với quân đội, trong khi các lãnh đạo
quân sự bắt đầu đứng vào đội ngũ chống lại bất cứ kẻ nào trong quân đội vốn hậu
thuẫn cho chủ nghĩa dân tộc tả khuynh luyến tiếc dĩ vãng (nostalgic,
left-tinged nationalism) của họ Bạc.
Từ
góc nhìn của Mỹ, điều này có vẻ là một kết quả khá tốt. Chính quyền Obama sẵn
sàng chào đón Trung Quốc với hai bàn tay mở rộng, cống hiến giới lãnh đạo cải
tổ vừa được củng cố một cơ hội để tiến lên thậm chí cả khi Mỹ áp dụng một ít
sức ép kín đáo trên những vấn đề như Iran và Syria trong những trường hợp mà Mỹ
hi vọng Trung Quốc có khả năng giúp đỡ nhiều hơn.
Vụ
trốn thoát của Trần Quang Thành làm phức tạp chiến lược này một cách nghiêm
trọng. Từ quan điểm của giới lãnh đạo Trung Quốc, vụ này phơi bày một mức độ
bất lực và lỏng lẻo gây nhục nhã sâu sắc cho mọi giới liên hệ. Bằng cách nào mà một người đơn độc khiếm
thị thiếu sức khỏe có thể qua mặt mạng lưới an ninh của một nhà nước độc đảng
mạnh nhất thế giới? Bằng cách nào mà một nhà bất đồng chính kiến bị quản chế
tại nhà đột nhiên xuất hiện trong vòng tay che chở của người Mỹ ngay trước khi các
cuộc đàm phán quan trọng với Ngoại trưởng Mỹ diễn ra?
Và
sau cùng còn có một bóng dáng khác sẽ chờn vờn trong tâm tư Ngoại trưởng
Clinton tại Bắc Kinh. Thủ tướng Noda của Nhật Bản sẽ gặp Tổng thống Obama trong
khi Ngoại trưởng Clinton đang gặp các lãnh đạo Trung Quốc. Hai nhà lãnh đạo
Nhật và Mỹ chắc chắn sẽ bàn về gia tăng hợp tác an ninh với triển vọng là quân
đội Nhật được phép huấn luyện trên các căn cứ Mỹ ngay cả trong khi đảo quốc này
mở rộng các quan hệ quân sự, chuyên chở vũ khí và viện trợ “chiến lược” khắp
châu Á. Chiếm ưu tiên cao trên chương trình làm việc của cả Tổng thống Obama
lẫn Thủ tướng Noda là: phát triển các chiến lược để kềm hãm đồng minh còn lại
cuối cùng của Trung Quốc trong khu vực châu Á, tức Bắc Hàn.
Sự
kiện này không cho thấy việc mặc cả về số phận Trần Quang Thành là dễ dàng,
huống hồ đòi lãnh đạo Trung Quốc phải hợp tác tức khắc trên các vấn đề khác mà
hai bên đều có quan tâm. Chính quyền Obama không thể buộc ông Trần Quang Thành
phải rời Sứ quán Mỹ để trở lại tình trạng quản chế mà không bị mất uy tín
nghiêm trọng, kể cả mất vốn liếng đạo lý của mình; nhà cầm quyền Trung Quốc
không thể trả tự do cho họ Trần mà không trả một cái giá rất đắt.
Khi
Chính quyền Obama bắt đâu kềm chế Trung Quốc vào năm ngoái, Mỹ không có ý định
đưa Trung Quốc vào thế chân tường hay bao vây ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng hiện
nay Mỹ đã mạnh thêm một chút và Trung Quốc có phần yếu thế và bất ổn hơn mọi
người đã tưởng trước đây, và các chính sách của chúng ta đã thành công có lẽ
nhiều hơn chúng ta mong muốn một chút.
Kurt
Campbell, phụ tá chính của Bà Clinton về tình hình châu Á, đã lặng lẽ bay đến
Bắc Kinh nhằm cố gắng ngăn chặn vấn đề Trần Quang Thành làm hỏng cuộc họp
thương đỉnh; rõ ràng là Ông Campell và Ngoại trưởng Clinton sẽ phải đàm phán
nhanh và đàm phán giỏi để trấn an nước chủ nhà phần nào rằng Mỹ thực tâm muốn
xây đắp quan hệ hợp lý và trân trọng với Bắc Kinh.
Cái
điều mà tất cả chúng ta có vẻ đang học được tại châu Á là, các biến cố đi theo
một lôgic và nhịp độ riêng của chúng nó. Hoa Kỳ có thể khởi động một chính
sách, nhưng chúng ta không thể kiểm soát hay điều chỉnh hậu quả các chính sách
của chúng ta khi những hậu quả này lan toả khắp thế giới. Nhiều cuộc trao
đổi với các quan chức Mỹ trong chính quyền Obama hay các chính quyền trước đây
giúp tôi tin rằng Mỹ không có ý định bao vây ngăn chặn Trung Quốc như chúng ta
từng bao vây ngăn chặn Liên Xô trước đây. Mặc dù gần như tất cả các
viên chức Mỹ cấp cao tin tưởng rằng về lâu về dài tiến bộ kinh tế sẽ dẫn đến
thay đổi chính trị tại Trung Quốc, sở dĩ như vậy là vì đại đa số người Mỹ được
lập trình để suy nghĩ theo chiều hướng này, nhưng niềm tin đặt vào sự tiến bộ
tất yếu (whiggish faith) trong tiến trình lịch sử không phải là một tuyên bố
chính sách hay là một ý định.
Các
chính trị gia hàng đầu của Mỹ trong cả hai đảng [Cộng hòa và Dân chủ] thường hi
vọng về một sự cải tổ hoà bình và tuần tự hơn là một tình trạng xung đột bạo
động tại Trung Quốc; họ không muốn chia năm xẻ bảy hay bần cùng hoá Trung Quốc
và nhất định họ không vui mừng trước sự tan rã của nó. Người Mỹ cũng không nhận
thấy diễn biến của một trật tự an ninh châu Á tương lai theo ý nghĩa “bên lở
bên bồi”, bên này được thì bên kia phải mất (in zero-sum terms). Hoa Kỳ muốn
ngăn chặn việc Trung Quốc thống trị châu Á nhưng bản thân chúng ta không muốn
khống chế khu vực này.
Trong
những chuyến viếng thăm Trung Quốc, tôi nhận thấy nhiều người dân bản xứ có một
cái nhìn bi quan hơn nhiều về ý định của chúng ta: họ thấy Mỹ và Trung Quốc vật
lộn nhau trong một trận chiến một mất một còn, để chỉ có một bên giành trọn
quyền thống trị. Tạm thời, lạ thay trước mắt một số nhà nghiên cứu Trung Quốc,
Mỹ đang giành được phần thắng trong cuộc đọ sức này. Chúng ta không nên trông
đợi phe cứng rắn Trung Quốc chấp nhận tình hình này bằng một thái độ thanh thản
và cam chịu, cho dù sự lựa chọn của họ hiện nay là rất hạn chế.
Ngoại
trưởng Clinton sẽ bay từ Trung Quốc sang Ấn Độ qua ngã Bangladesh. Với Thủ
tướng Noda của Nhật Bản có mặt tạiWashington và Ngoại trưởng Clinton có mặt tại
New Delhi, quan điểm của Beijing rất có thể vẫn còn âm u. Thêm nhiều biến cố
làm gai mắt Bắc Kinh chắc chắn sẽ diễn ra. Vì lợi ích quốc gia, những tiểu
cường như Việt Nam và Philippines sẽ khai thác sự hậu thuẫn mới mẻ mà họ nhận
đưọc từ Washington để giành lấy những gì mà họ có thể; điều này làm cho họ trở
nên quyết đoán hơn trong Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] và thêm nhiều vụ việc
khác có thể diễn ra, đặt Trung Quốc trước một lựa chọn cay đắng: hoặc trông nhu
nhược hoặc phải đương đầu một cuộc khủng hoảng. Vấn đề liên quan thương vụ vũ
khí Mỹ bán cho Đài Loan chắc chắn sẽ cộm lên. Sẽ có thêm nhiều hành động của
nhiều nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc gây kích động cho dư luận trong nước
và ảnh hưởng đến thế đứng của Trung Quốc ở nước ngoài. Những bất ổn kinh tế
toàn cầu sẽ ép buộc bàn tay của Trung Quốc trong chính sách kinh tế trong những
cách thế làm phức tạp quan hệ của Trung Quốc với các đối tác thương mại, kể cả
Mỹ. Trong cuộc tranh cử Tổng thống dài lê thê đang diễn ra tại Mỹ, hai ứng viên
và đại diện của họ sẽ tranh nhau tuyên bố cứng rắn về Trung Quốc trên các vấn
đề thương mại, an ninh và nhân đạo.
Lập trường mới của Mỹ tại châu Á là có thực và nó sẽ
không thay đổi một sớm một chiều. Hậu quả của sự chuyển hướng chiến lược này
đối với chính trị châu Á và đối với quan hệ Mỹ-Trung là phức tạp và không dễ gì
nắm bắt đầy đủ trong một thời gian ngắn. Nhưng đây là một thời điểm tranh sáng
trang tối và thậm chí nguy hiểm; chúng ta nên chúc Ngoại trưởng Clinton mọi
thành công có thể có được khi bà ra sức xây dựng những chiếc cầu cảm thông giữa
hai nền văn hóa chính trị và thế giới quan rất khác nhau.
W.
R. M.
Walter
Russell Mead là Giáo sư môn Sự vụ Quốc tế (Foreign Affairs) và Nhân văn
(Humanities) tại Đại học Bard, bang New York, đồng thời dạy môn Chính sách
Ngoại giao Mỹ (Ameican Foreign Policy) tại Đại học Yale. Ông từng là chuyên
viên nghiên cứu thâm niên về chính sách ngoại giao Mỹ tại Viện nghiên cứu chính
sách nổi tiếng Council on Foreign Relations (Hội đồng Quan hệ Đối ngoại) –
người dịch giới thiệu.
Dịch
giả gửi trực tiếp cho BVN.
.
.
.
No comments:
Post a Comment