Hoàng Long Hải
Posted on Tháng Tư 29, 2012 by BÁO TỔ
QUỐC | 10 phản hồi
Không chỉ với người Việt hải ngoại (Dziệt Cộng gọi là nước ngoài) mà cả với những người Việt trong nước (quốc nội), gọi ngày 30 tháng Tư là NGÀY QUỐC HẬN. Người ta
gọi như thế có đúng chăng, đúng như thế nào? Hận
cái gì và hận ai? Chúng ta có nên nhìn lại lịch sử để “ôn cố tri tân”?
Dân tộc chúng ta, với một ngàn năm đô hộ giặc Tầu, một trăm năm làm nô lệ cho Tây, không ít lần bị người Tầu xâm lược, từ trước khi Bắc thuộc, từ thời Triệu Đà xâm lăng Nam Việt, chiếm nước Âu Lạc
của Thục Phán, khiến vua An Dương
Vương biến thành con chim quốc (bôm na gọi là chim cuốc) dân tộc nầy đã có Quốc Hận rồi, từ trong “Chuyện
Cổ Tích” Văn Chương Bình Dân. (Dziệt Cộng gọi là Văn học Dân gian).
Nhìn chung, dân tộc nầy (tính
chung cả người Chàm, người Miên thủy Chân Lạp, v.v…) có nhiều
quốc hận, được nhắc lại nhiều lần,
trong sử sách (dĩ nhiên) và cả trong văn chương, nghệ thuật).
Trong âm nhạc, nhạc sĩ Châu Kỳ sáng tác “Hận Đồ Bàn”. Đồ Bàn là kinh đô xưa của vương quốc Chàm ở Bình Định. “Hận Đồ Bàn” là mối hận mất nước
của dân tộc Chàm.
Chế Lan Viên viết:
Sầu hận cũ tim ta ai biết được?
Người vui tươi, ta mãi mãi căm hờn.
Người vui tươi, ta mãi mãi căm hờn.
Cũng là nói tới mối hận của người Chiêm mất nước, bởi vì tôi không tin “ông Phán Hoan” (Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam
Lộ, Quảng Trị, tên thật của Chế Lan Viên), đã làm thông phán cho “nhà nước bảo hộ”, ưa chơi lạ, lập dị, không mấy
can đảm, mà có lòng yêu nước, dùng hình ảnh dân tộc Chàm mà nói lên lòng yêu nước (?) của ông? (Xin
xem: “Những nhà thơ tiền chiến theo Cộng Sản, cùng tác giả).
Âm nhạc, văn thơ bàn tới “Hận Nam Quan” thì nhiều lắm. Nhiều người
còn nhắc tới vở kịch “Hận Nam Quan” của
Hoàng Cầm. Có lẽ Hoàng Cầm cũng khá “vất vả” trong những năm theo Dziệt Cọng vì vở kịch
nầy, vở kịch “dụng chạm” tới “Trung Quốc vĩ đại” của người Cộng Sản Việt Nam.
Nói tới Hận Nam Quan, người có họ
sử, đọc sử không quên lời “trăn trối” của Nguyễn Phi Khanh, nói với
con là Nguyễn Trãi, khi ông con đi theo cha tới tận ải Nam Quan” “Con hãy về lo trả thù cho cha, rửa hận cho nước,
chứ đi theo
cha khóc lóc, phỏng có ích gì?”
Đó là những mối hận mất nước, hay đầy đủ hơn là “thù nhà nợ nước”. Với nguyễn Trãi, “thù nhà” là thù người Tầu bắt giam thân phụ ông rồi đưa về Tầu. “Nợ nước” là mối nợ mất nước vì nhà Minh.
Lưu Hữu Phước, một lần qua sông
Gianh, viết bài ca “Hờn Sông Gianh” là nói tới
mối hờn phân chia Nam Bắc thời “Trịnh Nguyễn phân
tranh”. Đó là mối hờn dân tộc về một cuộc nội chiến kéo dài trong lịch lịch sử, khởi thủy từ việc Nguyễn Hoàng vào “trấn đất Thuận Hóa” năm 1558, chấn dứt năm
1802, khi “Gia Long thống nhất sơn
hà”.
Cuộc phân ly Nam Bắc ở vĩ tuyến 17 năm 1954 cũng là ngày Quốc Hận của người Việt chúng ta.
Đất nước lại chia cắt
một lần nữa, là tại vì ai?
Bản Hiệp định Genève
1954 không có chữ ký của ông ngoại trưởng chính phủ
Quốc Gia Việt Nam (trước thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa), vì bác sĩ Trần Văn Đỗ không muốn mang tội với
lịch sử. Ông Phạm Văn Đồng, bộ trưởng ngoại
giao của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tức
“chính phủ Việt Minh”, là tay sai của đảng
Cộng Sản Việt Nam, thực hiện lời yêu cầu
của thủ tướng Tầu Cộng Chu Ân Lai,
đã ký vào văn bản chia cắt đất
nước ấy. Thực hiện việc chia cắt đất
nước, là có tội với dân tộc và lịch sử, nhất là khi làm theo lệnh của ngoại bang, tức là lệnh của Tầu (và cả Liên xô nữa). Tầu Cộng và Liên Xô thực hiện việc chia cắt đất
nước Việt Nam, dĩ nhiên, không phải vì quyền lợi của người Việt Nam bao giờ mà chính là vì quyền lợi của họ! !!!.
Người ta có thể nói khác đi được chăng?
Được! ! ! !!
Được là vì “quyền lợi của quốc tế vô sản”
Chia cắt (1954) được là vì quyền lợi của “quốc tế vô sản”
Vậy thì khi “thống nhất” (1975) là vì quyền lợi của ai?
Bắc Việt là “tiền đồn, là người lính tiên phong của thế giới vô sản”
Vậy thì khi Cộng Sản Bắc Việt,
với vũ khí của “quốc tế vô sản” đem quân “Giải phóng miền Nam” (!!!) thì vì quyền lợi của dân tộc
Việt Nam hay vì “quyền lợi của Quốc tế vô sản”. Không vì quyền lợi của “Quốc
tế vô sản”, Tầu Cộng và Liên Xô có “tuôn” vũ khí cho Cộng Sản Bắc Việt
hay không? Như vậy thì Cộng Sản chỉ là “người lính tiên phong” mà “tư lệnh” là những kẻ đứng đằng sau Bắc Việt Cộng
Sản.
Xin đừng quên câu nói của Nixon:
“Người Tầu thì dùng chủ nghĩa xã hội để xây dựng đất nước,
Người Việt Nam (ý nói Cộng Sản Bắc Việt) dùng đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vậy thì ai khôn hơn ai?
Ai là kẻ chỉ huy, ai là kẻ làm tay sai?
Ai là kẻ chỉ huy, ai là kẻ làm tay sai?
Trong ý niệm đó, sao
có thể gọi chiến tranh
Việt Nam là một cuộc nội chiến.
Trịnh Công Sơn viết “Ba mươi năm nội chiến từng ngày” là sai. Chính Dziệt Cọng cũng không nhận đây là một cuộc nội chiến. Họ
tuyên truyền rằng đây là
một cuộc “chiến tranh giải phóng”. Nó có nghĩa là “thế giới vô sản” giải phóng một dân tộc khỏi ách thống trị của “thế giới tư bản.”
Dù nói như thế nào, dù trong ý nghĩa nào, thì cuộc chiến nầy đích
thực là một cuộc xâm
lăng của “Thế giới Cộng Sản” mà
nạn nhân là dân tộc Việt Nam.
Nhìn kỹ hơn, “thế
giới Cộng Sản” do Tầu Cộng lãnh đạo (bên cạnh Tầu còn có Nga) mà bản chất người Tầu,
nước Tầu, từ ngàn năm trước, không bao giờ từ bỏ cái ý đồ xâm lăng Việt Nam. Dù có cuộc chiến tranh Tầu Cộng – Việt Cộng năm 1979
thì đó cũng chỉ là do mâu thuẫn của các nước đầu sỏ trong “thế giới cộng Sản” mà dân tộc Việt Nam, nói cho cùng, cũng chỉ là nạn nhân.
Bỏ đi hết các danh từ hoa mỹ khoa trương, nhìn vào thực chất, với người
Tầu, từ vũ khí của họ, và với những người lính, quân đội do Cộng Sản Việt Nam thành lập
nên, đã xâm lăng và chiếm đoạt, hủy diệt chính phủ
của nước Việt Nam, biến Việt Nam thành một
phần lãnh thổ của “thế giới Cộng Sản” mà thôi.
Nhìn chung, mối hận của người “Việt Quốc gia” dù ở trong nước hay hải ngoại, là “Mối hận mất nước”, mà thủ
phạm chính là Cộng Sản, dù
Cộng Sản Nga hay Cộng Sản Tàu,
trong khi đó Cộng Sản Bắc Việt chỉ là tên
lính tiền phong.
“Mất đất nước là mất tất cả”. Tổ quốc, gia đình, thân tộc, làng xã…
Với những mất mát to
lớn như vậy, Ai có thể quên được chăng?
hoànglonghải
.
.
.
No comments:
Post a Comment