Sunday, 20 May 2012

LUZIN VÀ VỤ ÁN CHỐNG LUZIN (Nguyễn Trần Sâm)




Nguyễn Trần Sâm

Ở những quốc gia nơi có một người hoặc một nhóm người thao túng toàn bộ xã hội và độc quyền về chân lý, số phận dành cho những trí thức chân chính bao giờ cũng rất nghiệt ngã. Liên Bang Soviet, quốc gia mà hàng trăm triệu người trên Trái Đất đã từng coi như thiên đường, cũng không phải là ngoại lệ. Biết bao những người con ưu tú, những bộ óc lỗi lạc đã chịu số phận đầy cay đắng. Để khỏi phải chịu tai họa, người trí thức nhiều khi buộc phải sống trái với lòng mình. Cũng có những kẻ vì không thắng nổi sự đố kỵ mà đã lợi dụng sức mạnh của giới cầm quyền để hãm hại những người bạn, thậm chí thầy của mình, để ngoi lên những vị trí có ảnh hưởng trong giới khoa học.

Bài viết này nói về thân thế và sự nghiệp của Nikolay Nikolayevich LUZIN, người sáng lập trường phái Toán Học Hiện Đại ở Moskva mà có giai đoạn đã bị đấu tố bởi chính những học trò của mình vì những lý do không xứng đáng và mang màu sắc chính trị. Cũng vì những lý do tầm thường như vậy mà người đã từng là thầy của chính ông, giáo sư D. Yegorov, còn bị chết tại nơi lưu đày.

Nikolay Nikolayevich Luzin

Nikolay Nikolayevich Luzin sinh ngày 9 tháng 12 năm 1883 tạiIrkutsk(vùng Đông Sibir của nước Nga). Khoảng năm 1894, gia đình ông chuyển đến Tomsk (Tây Sibir) để cậu bé Kolya (tức N. N. Luzin) có điều kiện đi học. Ở trường, người ta phát hiện ra rằng Kolya là một cậu bé nhút nhát và học kém môn Toán. Tuy nhiên, khi gia đình nhờ đến một sinh viên kèm cặp Kolya thì cậu sinh viên này lại phát hiện ra rằng Kolya rất thông minh và thường tìm ra những cách giải toán độc đáo.

Khi N. N. Luzin tốt nghiệp phổ thông, gia đình lại chuyển chỗ ở, lần này là về Moskva để Kolya có thể học đại học. Trong thời gian học đại học, N. N. Luzin đã cưới Nadezhda Mikhaylovna Malygina, người chung sống với ông suốt cuộc đời, cho đến khi ông tạ thế vào năm 1950.

Ở trường đại học,N. Luzin là sinh viên loại trung bình. Tuy nhiên, đối với những vấn đề mà ông quan tâm thì ông đọc rất nhiều tài liệu và tự tìm cách giải quyết. Năng lực của N. Luzinđã làm cho giáo sư D. Yegorov chú ý, và ông đã tìm cách giữ được Luzin ở lại trường.

Từ năm 1911 đến 1914, N. Luzin được cử sang Göttingen (Đức), khi đó là trung tâm khoa học hàng đầu của toàn thế giới, để tu nghiệp. Trở về Moskva được chừng một năm thì ông hoàn thành bản luận văn bậc magister (có lẽ trung gian giữa bậc thạc sĩ và tiến sĩ hiện nay) với tên gọi “Tích phân và chuỗi lượng giác”. Bản luận văn là cả một cuốn sách dày, hầu như không có những kết quả được chứng minh chi tiết. Tuy nhiên, nó đầy những kết quả mới lạ mà hầu hết được N. Luzin chứng minh sơ sài hoặc chỉ được nêu kèm theo những nhận xét như “tôi cảm thấy” hoặc “tôi tin rằng”. Khi đọc một bản luận văn như vậy, hầu như bất kỳ chuyên gia nào cũng sẽ muốn quẳng nó đi. Người phản biện, V. Steklov, bấy giờ là viện trưởng Viện Toán Học của Nga (Sa hoàng) đã chê bản luận văn hết lời và gọi nó là “trò rác rưởi Göttingen”, đồng thời yêu cầu không cho tác giả bảo vệ nó. Mặc dù vậy, giáo sư D. Yegorov đã nhận ra rằng bản luận văn đó đã phác thảo cả một lĩnh vực nghiên cứu rất rộng lớn, và ông cũng dự cảm thấy rằng những định lý mà N. Luzin chưa chứng minh được là đúng, và đến lúc nào đó sẽ có người chứng minh chúng một cách chi tiết. Và tại Moskva, người ta chẳng những đã cho N. Luzin bảo vệ, mà còn phong thẳng cho ông học vị tiến sĩ (ngang với tiến sĩ khoa học ngày nay).

Trong những năm sau đó, quả thật hầu hết những định lý mà N. Luzinnêu ra trong bản luận văn đã được chính ông hoặc các học trò chứng minh.

Vào những năm cuối thập niên 1910 bắt đầu hình thành “Luzitania” – trường phái toán học do N. Luzin chỉ đạo. Những học trò đầu tiên tạo thành “hạt nhân” của Luzitania gồm có những người mà hầu hết sau này trở thành những nhà toán học nổi tiếng thế giới, những viện sĩ hoặc viện sĩ thông tấn của Viện Hàn Lâm Khoa Học Liên Xô: P. Aleksandrov, M. Suslin, D. Menshov, A. Khinchin, P. Urysson, A. Kolmogorov, L. Lyusternik, L. Shnirelman,… Luzitania nhanh chóng trở thành một trung tâm có phát minh liên tục, cạnh tranh được với những trung tâm toán học hàng đầu thế giới như Göttingen,Paris,…

Giai đoạn 1922 – 1926 là giai đoạn phát triển rực rỡ của Luzitania. Nhiều hướng nghiên cứu của trường phái này xoay quanh các bài giảng của N. Luzin. Cần nói rằng N. Luzin chuẩn bị bài giảng rất sơ sài, và nội dung cũng như phương pháp truyền đạt chúng thì không theo một chuẩn mực nào. Ngoài ra, ông thường xuyên đến lớp học muộn giờ, bắt học trò phải chờ. Tuy vậy, các học trò của ông luôn đến đúng giờ, và trong khi chờ thầy, họ đứng ngoài hành lang chuyện trò, chủ yếu về các vấn đề toán học.

Trong bài “Nikolay Nikolayevich Luzin” viết cho tạp chí “Uspekhi matematicheskikh nauk” nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh N. Luzin, M. Lavrentyev kể:

Có lần, trong ba buổi liền, N. Luzin cố chứng minh một định lý mà ông vừa phát biểu. Trong khi ông chưa chứng minh được thì mọi học trò đều tự thử sức để chứng minh. Sang đầu buổi thứ tư thì chính Luzin xây dựng một ví dụ chứng tỏ rằng định lý đó sai. Với cách dạy như vậy, ông có thể bị nhiều người quy kết là tùy tiện, làm phí thời gian của học viên. Tuy nhiên, chính cách dạy đó đã huy động tối đa khả năng sáng tạo của tất cả những người trong cuộc, nhanh chóng biến họ thành những nhà nghiên cứu thực thụ. Cố nhiên, muốn dạy được theo cách đó thì chính người thầy phải đứng ở ngọn nguồn của những phát minh mới và học trò cũng phải là những người khát khao sáng tạo.

Những thành viên của Luzitania tôn thờ hai vị đứng đầu: “Chúa Cha” Yegorov và “Chúa Con” Luzin. Những ai mới đến cũng đều nhanh chóng nhận ra rằng vai trò chính thuộc về N. Luzin. Tuy nhiên, họ vẫn giữ lệ mỗi năm đến thăm nhà D. Yegorov ba lần vào các ngày lễ. Thái độ của họ tại nhà Yegorov thường là tỏ ra tôn kính. Với N. Luzin thì hoàn toàn thoải mái: bản thân Nikolay Nikolayevich liên tục pha trò, đùa cợt với các học viên theo cách hoàn toàn bình đẳng. Các trợ thủ đắc lực của N. Luzin gồm có V. V. Stepanov và hai người có tên viết tắt P. S. là Pavel Sergeyevich Aleksandrov và Pavel Samuilovich Urysohn, những người được gọi đùa là “PSy” (chó đực!).

Có lần, 20 học viên đến nghe N. Luzin giảng bài. Họ chờ một giờ liền, sau đó bảo nhau đến tìm N. Luzin tại nhà. Đến nơi thì vợ ông nói ông vừa bị một cô gái bắt cóc đến Maly Teatr (Nhà hát nhỏ). Cả nhóm nổi điên, đặc biệt là các nữ học viên – họ đều thực sự mê thầy. Họ kéo nhau đến nhà hát, mua 2 chiếc vé rồi dùng chiến thuật hai vào, một ra với cả hai vé, cuối cùng cả 20 người đều vào được nhà hát. Đợi lúc giải lao, họ lôi Luzin ra và “trừng phạt” ông bằng cách đồng thanh hát bài “Luzitania ca”, sau đó kéo nhau đến quảng trường Arbat nhảy múa.

Không thể kể hết những trò vui nhộn, cách sống và xử sự thực sự tự do cùng với phong cách làm việc hết mình và vô cùng hiệu quả ở Luzitania. Chỉ cần điểm qua hàng chục tên tuổi những người đã từng qua Luzitania và trở nên nổi tiếng thế giới thì cũng đã thấy vai trò của N. Luzin đối với Toán Học Nga và Soviet to lớn đến mức nào. Ngay cả một số người sau này trở mặt với Luzin vì những lý do này nọ cũng không phủ nhận được điều này. Bản thân N. Luzin thì năm 1927 được bầu làm viện sĩ thông tấn, và năm 1929 trở thành viện sĩ chính thức kiêm trưởng ban Toán của Viện Hàn Lâm Khoa Học Toàn Nga.
Nikolay Nikolayevich Luzin mất ngày 28 tháng Giêng 1950 tại Moskva.

Vụ án chống Luzin

Vụ việc này diễn ra từ năm 1936, và nó đã làm cho 14 năm cuối của cuộc đời nhà khoa học lỗi lạc, đã cống hiến toàn bộ khả năng sáng tạo của mình cho dân tộc và cho nhân loại, trở nên u ám. Thế mà nó chỉ được phanh phui sau 63 năm kể từ ngày xảy ra.

S. Kutateladze, tác giả bài “The Tragedy of Mathematics in Russia” (Bi kịch của nền Toán Học Nga) đăng trong Preprint số 188 của Viện Toán Học tại Novosibirsk, viết:

“Năm 1999, nước Nga bị chấn động vì sự xuất hiện của cuốn sách “Vụ án viện sĩ Nikolay Nikolayevich Luzin”. Lần đầu tiên toàn bộ văn bản lưu về các cuộc họp của Ủy Ban của Viện Hàn Lâm Khoa Học Liên Xô về vụ việc này đã được công bố…
Ủy Ban đã được thành lập sau khi xuất hiện bài viết “Về những kẻ thù khoác mặt nạ soviet” trên báo “Pravda” ngày 3 tháng Bảy năm 1936. Trong bài viết này, Luzin bị buộc đủ mọi thứ tội trạng mà người ta có thể nghĩ ra về một nhà khoa học. Ông được mô tả như một kẻ vừa dơ bẩn về đạo đức và không trung thực trong khoa học, vừa giấu kín sự thù địch đối với toàn bộ xã hội Soviet. “Ông ta cho in ấn những thứ giả khoa học, lấy phát minh của học trò làm thành tựu của mình, có những ý đồ đen tối, háo danh và cao ngạo, và có lẽ còn mang cả tư tưởng phát-xít nữa.”

… Về bài báo này và về việc đập tan “bọn Luzin”, tất cả các nhà khoa học thế hệ trước đều biết rõ. Không ai nghi ngờ rằng việc khởi động chiến dịch thóa mạ Luzin được thực hiện bởi bộ máy đàn áp của đảng CSLX. Tại hậu trường của chiến dịch thấp thoáng bóng dáng của L. Mekhlis và E. Kolman, những đại diện tiêu biểu của bộ máy đàn áp thời Soviet. Người thứ nhất thời đó là tổng biên tập báo đảng “Pravda”, còn người thứ hai là trưởng phòng khoa học của đảng bộ Đảng Cộng Sản Toàn Nga (Bolshevik) tại Moskva.

Vụ Luzin trong nhiều năm được coi là nằm trong bối cảnh chung của những tội trạng thời toàn trị Stalinist. Việc công bố hồ sơ lưu đã làm lộ ra một tình trạng đã bị che giấu: trong số những kẻ hăng hái trong việc khủng bố tư tưởng đối với Luzin có những học trò của ông. Thủ vai chính trong số họ là P. Aleksandrov, thủ lĩnh của trường phái Topologia Moskva.
S. Novikov từng viết:
“Việc điều tra được thực hiện bởi đức cha (có lẽ cùng với cả Lyusternik và Lavrentyev, người biết rõ những nhóm người trong đảng). Họ đã phát hiện ra rằng P. Aleksandrov từng viết một bức thư cho một nhân vật có thế lực là Khvorostin để nói xấu Luzin. Khvorostin làm việc ởSaratovvà có nhiều mối quan hệ với trung ương đảng. Ông ta ghét Luzin – đây là điều rõ ràng. Ông ta, như những người điều tra cho biết, đã đưa hồ sơ cho ban chấp hang trung ương và chủ trương viết bài báo. Pavel Sergeyevich (Aleksandrov) thực sự là một tay kích có hạng!”

Luzin rất bất bình về việc P. Aleksandrov phủ nhận công lao của ông trong lý thuyết các tập hợp giải tích. (…) Những tập hợp này thường được gắn với tên tuổi Aleksandrov và Suslin và được gọi là A-tập-hợp hay tập hợp Suslin.

Tham gia tích cực vào các phiên họp của Ủy Ban luận tội Luzin có A. Kolmogorov, L. Lyusternik, A. Khinchin, L. Shnirelman. Các thành viên Ủy Ban là S. Sobolev, O. Schmidt cũng rất nhiệt thành ủng hộ việc tấn công Luzin. Lên tiếng bảo vệ Luzin có A. Krylov và S. Bernstein.

Mục cuối cùng trong kết luận của Ủy Ban viết:
“Tất cả những điều trình bày ở trên đã thâu tóm rất nhiều tư liệu có trong Viện Hàn Lâm và hoàn toàn khẳng định tính cách của Luzin như trong bài viết trên báo “Pravda”.”
Tất cả những người tham gia vào các biến cố năm 1936 đã rời bỏ thế giới này. Rõ ràng họ không biết rằng các văn bản về những phiên họp này vẫn được lưu giữ. Ngày nay, chúng ta biết chính xác về các chi tiết đã diễn ra trong Ủy Ban cũng như chung quanh nó. Giới Toán Học hiện đang phải chịu đựng sự việc này một cách đau lòng và đang xem xét lại vai trò của những người học trò của Luzin trong việc tổ chức hành hạ ông về chính trị.”

Tuy nhiên, cũng có nhiều người phản đối việc trù dập N. Luzin. Trong số đó có P. Novikov, M. Lavrentyev, V. Vernadsky, A. Krylov, S. Bernstein, nhà vật lý P. Kapitsa, nhà toán học Ba Lan V. Sierpinski, các nhà toán học Pháp H. Lebesque và A. Denjoy,…

S. Kutateladze viết tiếp:
“Nếu Luzin có lỗi thì lỗi đó thuộc về mối quan hệ thầy-trò. Không có bằng chứng nào về việc ăn cắp công trình. Việc buộc tội ông đã gán công trình của mình cho H. Lebesque hay của Suslin cho chính mình chỉ là sự thêu dệt thô thiển.
… Dù sao thì cũng không thể không nói đến xung đột thế hệ giữa Luzin và những học trò thành công nhất của ông. Có thể đoán rằng Luzin đã không công bằng khi trích dẫn các công trình của học trò và có thể ông cũng không giỏi trong việc khắc phục những khó khăn khi giải quyết một số vấn đề toán học. Cũng có thể đoán rằng ông đã có thái độ hai mặt trong việc bầu P. Aleksandrov vào Viện Hàn Lâm, mặc dù đã có thư của A. Kolmogorov gửi cho ông đề nghị ủng hộ P. Aleksandrov. Nhưng chẳng lẽ việc này lại gây ra thảm kịch hay sao? Và chẳng lẽ đây là bản chất của vụ án Luzin?”

Để khép tội N. Luzin, một số người luôn xoáy vào việc N. Luzin có thái độ khó chịu đối với người học trò sắc sảo nhất là M. Suslin, để đến mức anh này phải bỏ đi, rồi sống trong túng thiếu, bệnh tật và cuối cùng thì chết sớm.

Một việc khác cũng được họ tận dụng là N. Luzin thích công bố công trình ở một vài nước phương Tây. Họ dựa vào đó để quy kết là N. Luzin có lập trường tư sản, thậm chí phát-xít. Còn trong biên bản ghi chép chi tiết các ý kiến trong những cuộc họp của Ủy Ban Viện Hàn Lâm về vụ việ cN. Luzi nthì chỉ thấy rõ rằng người ta đã cố ép N. Luzin phải nhận những tội mà không hề có bằng chứng, còn khi ông không chịu nhận thì người ta cứ kết luận theo một ý đồ đã sắp sẵn từ trước.

Nhưng dù sao cũng phải thừa nhận rằng N. Luzin, vì một lý do gì đó, đã gặp may: ông không phải chịu trách nhiệm hình sự, thậm chí không bị loại khỏi Viện Hàn Lâm, mà chỉ mất chức trưởng ban Toán của Viện. Trong khi đó, chỉ vì lý do không phải người vô thần mà người thầy cũ của ông, giáo sư D. Yegorov, đã bị bắt và bị lưu đày đến chết.

Tuy vậy, N. Luzin cũng phải rời bỏ cương vị giáo sư tại Đại học tổng hợp Moskva, và gần như bị “vô hiệu hóa” trong những sinh hoạt toán học của Viện Hàn Lâm.

NGUYỄN TRẦN SÂM





No comments:

Post a Comment

View My Stats