11-5-2012
Hội nghị Trung ương 5 Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa khai mạc sáng thứ hai 7/5. Chủ đề quan trọng được nêu lên đầu là
bàn về sửa đổi Hiến pháp. Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý các ủy viên
trung ương rằng sửa đổi Hiến pháp là ‘công việc đặc biệt hệ trọng’ và mang
‘tính chất nhạy cảm’.
Vì sao lại nhạy cảm thì không rõ
lắm nhưng quả thật đây là ‘công việc đặc biệt hệ trọng’ vì rõ ràng Hiến pháp
hiện thời của nước ta tồn tại nhiều vấn đề bất cập không thể không sửa đổi. Là
một công dân, tôi cũng muốn thể hiện trách nhiệm của mình đối với công việc
này. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu những ý kiến đã đóng góp trước đây tôi thấy ý
kiến của tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang có nhiều điểm trùng hợp với nhận thức của
tôi. Bởi vậy tôi xin trân trọng giới thiệu lại những ý kiến này:
I - Trích bài “Nghĩ về Hiến pháp nước ta” (Rút trong
cuốn “Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam”)
... “Ngày 9 tháng 11 năm 1946 bản
Hiến pháp đầu tiên đã được quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thông qua
sau 10 ngày làm việc khẩn trương với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống. Có lẽ đây
là bản Hiến pháp dân chủ nhất, tính đến nay, của nước ta. Với lời nói đầu ngắn
gọn và khúc chiết (hơn cả, so với tất cả các bản Hiến pháp sau này), bản Hiến
pháp 1946 đã xác dịnh ba nguyên tắc cơ bản sau đây:
Ðoàn kết toàn dân không phân biệt
giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo.
Ðảm bảo các quyền tự do, dân chủ.
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân.
Trên cơ sở đó, Ðiều 1- Hiến pháp
1946 ghi rõ: "... Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo
". Ðiều này, về sau cứ bị biến tướng dần dần.
Hiến pháp 1959 khả dĩ còn ghi: "Tất
cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân
dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp
do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng Nhân
dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân
chủ ".
Ðến Hiến pháp 1980 đã biến hóa lắt
léo thành: "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô
sản" (Ðiều 2). "Ở nước CHXHCN Việt Nam, người chủ tập thể là
nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng
lớp tri thức XHCN và những người lao động khác, mà nòng cốt là liên minh công
nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo" (Ðiều 3).
Ðến Hiến pháp 1992 thì: "Nhà
nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức" (Ðiều 2). Ðiều này dự
kiến hầu như sẽ được giữ nguyên trong kỳ sửa đổi này.
Thế đấy, từ Hiến Pháp 1946, qua các
Hiến pháp 1959, 1980 đến Hiến pháp 1992, cái "miếng da lừa" quyền lực
của nhân dân cứ ngày một teo dần. Từ chỗ "Tất cả quyền bính trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giầu
nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Hiến pháp 1946), đến chỗ có phân biệt giữa
"nhân dân nòng cốt", "nhân dân nền tảng" với "nhân dân
ngoài vỏ", "nhân dân chầu rìa". Lại nữa, dù có mềm hóa từ "Nhà
nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản" (Hiến pháp 1980)
thành "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân" (Hiến pháp 1992) thì ngay trong đám nòng cốt và nền tảng
đó, bao giờ nhân dân là trí thức cũng bị xếp hạng bét!
….. “Tôn trọng nguyên tắc "Ðảm
bảo các quyền tự do dân chủ" ghi rành rọt trong lời nói đầu, Hiến pháp
1946 rất chú trọng đến chế định công dân. Hiến pháp có 7 chương thì toàn bộ
chương 2 được dành cho chế định công dân. Tại đây, Ðiều 10 công bố rất rõ ràng,
dứt khoát "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản,
tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và
ra nước ngoài ".
Ðến Hiến pháp 1959 điều này càng
được khẳng định rõ ràng hơn "Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có
các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình, Nhà nước bảo
đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền
đó" (Ðiều 25). "Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào " (Ðiều
26).
Vậy mà, đến Hiến pháp 1980 người ta
đã bắt đầu phải ngoắc thêm một điều kiện: "phù hợp với lợi ích của chủ
nghĩa xã hội", đồng thời đính kèm một lời răn đe: "Không ai được lợi
dụng các quyền tự do dân chủ để...".
Nguyên văn điều 67- Hiến pháp 1980
là: "Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội
họp, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước
và của nhân dân ".
Qua Hiến pháp 1992, những quyền
công dân trên được phân bổ trong các điều 68, 69, 70 nhưng bây giờ ở đâu cũng
phải đeo thêm một cái vòng kim cô hay một cái xiềng lỏng: "theo quy
định của pháp luật ".
Nguyên văn điều 68 và điều 69 -
Hiến pháp 1992 là: "Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong
nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp
luật". "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền
được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật ".
Tất cả các quyền tự do đều bị hạn
chế dần. Riêng quyền tự do xuất bản đã được ban bố trong Hiến pháp 1946 thì sau
đó biến mất hẳn trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam sau này! ”
……“Không lệ thuộc vào Hiến Pháp
1918 của nước Nga Xô viết, nơi mà mọi tài sản tư hữu của địa chủ và tư sản đều
bị quốc hữu hóa, Hiến pháp 1946 của Việt Nam vẫn bảo vệ quyền tư hữu của công
dân. Ðiều 12 - Hiến pháp 1946 ghi: "Quyền tư hữu tài sản của công dân
Việt Nam được bảo đảm".
Ðến Hiến Pháp 1959, quyền tư hữu
cũng còn được thừa nhận. Ðiều 11- Hiến Pháp 1959 ghi: "Ở nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ quá độ, các hình thức chủ yếu về tư hữu tư liệu
sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình
thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao
động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà
tư sản dân tộc ".
Vậy mà, dưới triều đại Lê Duẩn,
quyền tư hữu đã bị xóa bỏ trong Hiến pháp 1980. Sai lầm tai hại đó được sửa
chữa một phần trong Hiến pháp 1992 tại điều 16: "... phát huy mọi tiềm
năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức,
thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học,
kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới ".
Có thể nói, nếu Hiến pháp 1946 mang
nhiều yếu tố dân chủ, tiến bộ nhất thì Hiến pháp 1980 được xây dựng lại dưới
thời Lê Duẩn là bản Hiến pháp tồi tệ nhất trong 4 bản Hiến pháp đã có của nước
ta. Ngoài việc cóp nhặt điều 6 của Hiến pháp Liên Xô, áp đặt thành điều 4 cho
Hiến pháp Việt Nam, Hiến pháp 1980 còn chứa đựng nhiều điều có tính chất phản
động, tạo tình trạng áp chế tư tưởng, ngăn trở phát triển kinh tế nói riêng và
xã hội nói chung ở nước ta. Hãy thử điểm qua một số điều:
- Ðiều 38: "Chủ nghĩa
Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam"
- Ðiều 18: "... thiết lập và
củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh
tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở
hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân
lao động..."
- Ðiều 21: "Nhà nước giữ độc
quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài"
- Ðiều 22: "Các cơ sở kinh tế
quốc doanh hoạt động theo phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước, thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá
nhân..."
- Ðiều 25: "ở nước CHXHCNVN,
những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản đều bị quốc hữu
hóa không bồi thường" ”.
*
II - Trích bài “Thảo luận về dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Việt Nam 1980” đăng tải ngày 8 tháng 01 năm 1992.
“Kính gửi: Ban soạn thảo sửa đổi
Hiến pháp.
Tôi là một trí thức ngoài Đảng, lại
vốn chỉ làm khoa học tự nhiên, không hiểu biết gì về hiến pháp học. Tuy nhiên,
sau khi đọc kỹ bản dự thảo sửa đổi hiến pháp 1980, tôi thấy có một số ý kiến
muốn được phát biểu, mong được ban soạn thảo Hiến pháp tham khảo.
Sau đây là một số ý kiến cụ thể của
tôi:
………..
5. Không nên lạm dụng cụm từ XHCN.
Việc đưa ý niệm "Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản
XHCN" làm cho Điều 76 vừa không xác định vừa mâu thuẫn với một số điều
khác. Thế nào là tài sản XHCN? Đối với các di sản văn hóa, di tích lịch sử, các
tài sản của các thành phần kinh tế khác thì sao?
Ở Điều 13 chỉ cần ghi "Tổ quốc
Việt Nam là thiêng liêng là bất khả xâm phạm" là đủ. Không cần thêm cụm từ
XHCN vào sau tổ quốc Việt Nam.
6. Vấn đề hệ thống tư pháp thuộc cơ
quan quyền lực nào và chế độ thẩm phán bầu hay bổ nhiệm là rất quan trọng, bởi
vậy không nên để lửng như Điều 129: "Chế độ bổ nhiệm và nhiệm kỳ của thẩm
phán, chế độ bầu và nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân ở tòa án nhân dân các cấp do
luật định".
Để bảo đảm tính độc lập tương đối
cho quyền tư pháp, cần có Hội đồng Tư pháp Tối cao. Hội đồng này cử ra những
thẩm phán xét xử và công tố viên. Cũng cần đổi Viện Kiểm sát Nhân dân hiện nay
thành Viện Công tố có chức năng kiểm soát các hoạt động của các cơ quan hành
pháp và có quyền khởi tố, cáo trạng và kháng nghị.
Dù vẫn muốn duy trì chế độ trung
ương tập quyền thì ta vẫn phải hết sức cố gắng tổ chức nhà nước sao cho nguyên
tắc quyền lực ngăn trở quyền lực được bảo đảm. Thực tế là hiện nay tình trạng
quan liêu và tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở ta còn tệ hại hơn những năm
trước và hơn rất nhiều nước trên thế giới. Nạn Ma-phia cũng hình thành rộng rãi
và có nguy cơ phát triển ghê gớm. Các cấp chính quyền có xu hướng hoạt động vì
chính quyền hơn là vì nhân dân. Nếu các nhà lãnh đạo không tỉnh táo nhìn thẳng
vào sự thật một cách khách quan, hoặc vì quá say sưa tự hào với thành tích hoặc
quá nhấn mạnh đến yêu cầu ổn định chính trị mà không tổ chức việc kiểm tra và
kiểm soát một cách nghiêm túc, xuê xoa cho nhau, bỏ mặc quần chúng, thì khả
năng phân hóa (không phải chỉ về kinh tế mà cả về xã hội, chính trị) sẽ diễn ra
rất mạnh mẽ. Không thể không cảnh giác đề phòng nguy cơ suy yếu trường cửu và
thậm chí dẫn đến tan rã.
7. Nên bỏ hai chữ "nhất
thiết" trong câu "ngoài thủ tướng các thành viên khác của chính phủ
không nhất thiết phải là đại biểu quốc hội" (Điều 107).
Muốn có sự phân biệt tương đối rõ
giữa quyền lập pháp và hành pháp thì đại biểu quốc hội không nên kiêm nhiệm
những chức vụ lãnh đạo trong hệ thống hành pháp và tư pháp.
Vả chăng từ khóa tới, đại biểu quốc
hội cần hoạt động thực sự, nên phải dành thời giờ thỏa đáng cho công việc của
quốc hội, không còn đủ thời gian và tâm trí để làm việc của chính phủ.
8. Vấn đề đồng bào ta định cư ở
nước ngoài phải được xem là một trong những vấn đề lớn của quốc gia, của dân
tộc. Cần đặt vào đây những nhiệm vụ chiến lược và đưa vào phạm trù của những
quốc sách.
Đồng bào ta đã ra đi từ năm 1975 và
lại đang ra đi từ khi Đông Âu tan rã và Liên Xô sụp đổ. Bởi vậy, vấn đề này đã
và đang phát sinh và phát triển rất mới lạ. Muốn hạn chế sự xuất hiện của các
lực lượng chống đối, đồng thời tranh thủ sức đóng góp to lớn của những cộng
đồng người Việt Nam này, cần quan tâm thực sự đến họ với tấm lòng ưu ái của máu
mủ ruột thịt. Cần tỏ ra rằng chúng ta vẫn xem cộng đồng những người Việt Nam ở
nước ngoài là một bộ phận của nhân dân Việt Nam.
Đề nghị tách Điều 5 Chương 1 thành
hai điều. Một trong hai điều đó sẽ được ghi là:
"Nhà nước Việt Nam là nhà nước
thống nhất của các dân tộc cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước
thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc. Nhà nước
tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ với gia đình,
quê hương, được giữ quốc tịch Việt Nam và được trở về tái định cư trên đất nước
Việt Nam khi có nguyện vọng".
*
III - Trích bài “Sửa đổi Hiến pháp Việt Nam là yêu cầu
bức thiết” đăng tải ngày 20 tháng 11 năm 2007 (Bài này viết chung với luạt sư
Trần Lâm)
…… Điều 4 dẫm đạp lên nhiều điều
khác trong chính bản Hiến pháp 1992:
1 - Đối với Điều 2 – Điều 2 ghi: “Nhà
nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHXN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”
Điều 2 xác định Việt Nam là một
nước dân chủ theo định nghĩa của tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln: “Một
quốc gia dân chủ là một quốc gia mà chính quyền của dân, do dân, vì dân”. Điều
4 khẳng định “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy tức
là đảng chủ, là chính quyền của Đảng, dân của Đảng, dân phải vì Đảng. Rõ ràng
Điều 4 chống lại Điều 2.
2 - Đối với Điều 15 – Điều 15 ghi: “Nhà
nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường…” trong
khi Điều 4 ghi: “Đảng CSVN theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh...”
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng
hóa phát triển ở trinh độ cao trong khi chủ nghĩa Mác nói chung không thừa nhận
kinh tế hàng hóa và chủ trương xoá bỏ sở hữu tư nhân. Rõ ràng Điều 15 “bất đồng
chính kiến” với Điều 4.
3 - Điều 17 ghi: “Phát huy mọi
năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài...”.
Điều 21 ghi: “Kinh tế cá thể,
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động …”.
Cùng với Điều 15, hai điều này
không thể thích nghi Điều 4, hoặc là Điều 4 là cái cùm gông xiềng ba điều 15,
17, 21.
4 - Đối với Điều 83 – Điếu 83 ghi: “Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của
nước CHXHCNVN”. Thế là, Điều 83 cùng với Điều 2 hoàn toàn phủ định Điều 4,
hoặc là Điều 4 chống lại Điều 2 và Điếu 83.
5 - Đối với Điều 101 – Điều 101 quy
định: quyền hạn của Chủ tịch nước: “Chủ tịch Nước là người đứng đầu Nhà
nước, thay mặt nước CHXHCNVN về đối nội và đối ngoại” trong khi Điều 4 xác
định đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Hai điều này chồng
chéo dẫm đạp lên nhau, nói khác đi, cũng chống nhau.
V.v...
B - Điều 4 biểu hiện Đảng toàn trị chứ không phải Đảng
lãnh đạo -
1 – Khi đặt ra Điều 4, Đảng chỉ
nhìn thấy mặt lợi là dựa vào đấy để giữ “ổn định chính trị”, củng cố vị trí độc
tôn, vĩnh viễn của Đảng. Song, mấy chục năm qua, thực tiến đã trả lời: Điều 4 đã
làm tha hóa Đảng rất tai hại. Không ai, kể cả những người cầm đầu Đảng, không
dễ dàng nhận rõ được rằng Đảng ta đã và đang suy thoái trầm trọng.
Đảng suy thoái như thế nào?, ở điểm
nào?, ở đâu?, người ta đã nói quá nhiều, thiết tưởng không cần nhắc lại ở đây.
Nhưng có thể khái quát là tín nhiệm
của Đảng đã sa sút, nội bộ Đảng đã bị lũng đoạn, sức mạnh Đảng đã suy giảm đến
mức báo động. Biết bao nhiêu nan đề: giao thông ách tắc, môi trường hủy hoại,
giầu nghèo doãng xa, tham nhũng tệ hai, văn hóa suy đồi …! Điều 4 có trách
nhiệm gì ở đây? Đảng toàn trị có phải là nguyên nhân?
2 - Đảng toàn trị làm Đảng suy yếu.
Tác động của Đảng làm nẩy sinh tiêu cực trong nhân dân. Sự thờ ơ, vô cảm, vô
trách nhiệm … là các tệ đoan tầm thấp. Cao hơn là chà đạp lên văn hóa dân tộc,
gian dối lừa đảo, bức hại người lành, tội phạm tràn lan …. Đảng khống chế và
chi phối xã hội. Đảng suy thoái làm cho xã hội suy thoái. Đấy là hậu quả tai
hại của đảng toàn trị do Điều 4 gây ra.
Điều 4 nguy hại như vậy, cho nên
đặt vấn đề xem xét, nghiên cứu, giải tỏa Điều 4 là điều cần làm và cần làm
ngay.
Giải tỏa Điêu 4 là vấn đề hệ trọng,
bao trùm lên tất cả. Bởi vậy nó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân thực sự đề cao tinh
thần trách nhiệm vì nhân dân, vì Tổ quốc mà dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám
dũng cảm đương đầu.
……Dứt khoát gạt bỏ Điêu 4 Hiến pháp
1992 khỏi Hiến pháp mới hoặc Hiến pháp sửa đổi. Gạt bỏ Điều 4 chính là phương
sách cứu chữa và vực đảng CSVN dậy.
Tuyên bố: “ Đảng ta bỏ Điều 4 là tự
sát ” phải chăng là câu gở miệng. Hãy nhớ, ngày 20 tháng 11 năm 1989 trong cuộc
họp Bộ Chính trị đảng Cộng sản Liên Xô, ông Michail Gorbachev vừa dóng dả: “
Phải giữ cho được điều 6 Hiến pháp (tương tự Điều 4 của Việt Nam), đó
không phải là tình trạng cứu hỏa và cũng không phải là tình trạng đặc biệt”.
Oái oăm thay, đấy lại chính là “ Tiếng chuông nguyện hồn ai ” bi thảm, cáo
chung đảng Cộng sản Liên Xô liền ngay sau đó. Đó là gương tầy liếp buộc người
có trách nhiệm ở Việt Nam phải cảnh tỉnh.
Một lần nữa, chúng tôi xin nhắc
lại, hãy kíp thời hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp, làm cơ sở hủy bỏ Điều 88 Bộ Luật
hình sự, nhằm giúp đảng CSVN còn có cơ tồn tại và ra sức vươn lên đặng sánh vai
cùng các đảng khác trong một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, ngõ hầu xây
dựng được một nước Việt Nam mạnh giầu, nhân dân được hưởng tự do, hạnh phúc’.
Sửa đổi Hiến pháp là ‘công việc đặc
biệt hệ trọng’ cho nên phải sửa đổi cho đúng. Muốn sửa đổi đúng thì không chỉ
bàn bạc trong nội bộ lãnh đạo mà phải thực sự tôn trọng ý kiến công chúng, đặc
biệt là ý kiến của những trí thức vừa có tâm vừa có tầm như trên đây. Bây giờ
đọc lại mới thấy những ý kiến mà tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang đã nêu cách đây
hàng chục năm bị bỏ qua thì nay ta mới càng thấm hiểu được tính đúng đắn đáng
nhẽ phải được tiếp nhận từ lâu.
Phải làm theo yêu cầu TBT nêu lên
là tất cả ‘những vấn đề thực sự cần thiết, được thực tiễn chứng minh là đúng’
thì nhất định phải sửa chứ không thể bị ràng buộc bởi sự chỉ đạo vô lý của ông
rằng ‘quyền lực nhà nước là thống nhất’ và sẽ không có chuyện tam quyền phân
lập ở Việt Nam.
Hãy lưu ý lời phàn nàn (được chứng
minh rất cụ thể) của tiến sỹ Địa Vật lý Nguyễn Thanh Giang về sự thụt lùi của
các Hiến pháp về sau so với Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và quyết tâm sửa đổi làm sao để ta có một bản Hiến pháp ít ra cũng tiến bộ
được như Hiến pháp 1946
37 Lý Nam Đế
Điện thoại: (04) 62 700 002
No comments:
Post a Comment