Dương
Danh Huy
Tác giả gửi đến Dân Luận
hứ Ba, 03/06/2014
1.
Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm
Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lí của Trung Quốc, mà không hề thừa nhận
quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về cơ bản, công
hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam
Sa.
Phản
luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà
chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm
vi bao quát trong 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả
lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam
Sa.
Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận
và tán thành” với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước
hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi
vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại
thì lãnh hải cũng không có căn cứ.
Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm
bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc,
thì theo lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung
của Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả
chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”
Bình
luận của Dương Danh Huy: Theo luật quốc tế, có 3 điều
có thể làm cho một quốc gia mất chủ quyền mình đã có trên một vùng lãnh thổ, đó
là
1. Công nhận chủ quyền của nước khác.
2. Gây ra estoppel không cho mình nói ngược lại điều
mình đã nói.
3. Bị cho là đã acquiesced.
The luật quốc tế thì để xét CHPVĐ có bị vướng lỗi
(1) và (2) hay không, tòa sẽ xét xem CH PVĐ có nói cụ thể gì về Hoàng
Sa, Trường Sa hay không, và nếu có nói thì có phải là trong văn cảnh TQ và
VNDCCH thảo luận về Hoàng Sa, Trường Sa hay không. Luật quốc tế đòi hỏi hai điều
này. Nếu không nói cụ thể mà chỉ có thể bị/được suy diễn logic thì sẽ không đủ.
Nếu nói trong văn cảnh khác với thảo luận về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường
Sa thì cũng sẽ không đủ. Trả lời cho 2 câu hỏi này dĩ nhiên là “Không”.
Điều đó có nghĩa CHPVĐ chỉ có thể vướng lỗi (3), không vướng lỗi (1) hay (2).
Vấn đề ở đây là TQ và Ngô đã mạo nhận và biến lỗi
(3) thành lỗi (1), còn phía VN thì mới chỉ nói 1/2 sự thật khi nói CH PVĐ không
vướng lỗi (1), bỏ qua lỗi (3).
Nếu suy diễn logic bình dân thì dễ có ấn tượng sai lầm
là lỗi (3) hay lỗi (1) thì cũng như nhau, nhưng trong trường hợp đặc thù của
VNDCCH, VNCH, CHMNVN và CHXHCNVN thì lỗi (3) có ít hệ quả hơn lỗi (1). Nếu
VNDCCH mắc lỗi (1) hay (2) thì có thể gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý
cho chính thể này, và nếu thế thì khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành
CHXHCNVN, CHXHCNVN sẽ phải thừa kế hai điều đối nghịch nhau: một bên là nghĩa vụ
có tính ràng buộc pháp lý, thừa kế từ VNDCCH, bên kia là chủ quyền đối với
HSTS, thừa kế từ CHMNVN. Sự đối nghịch đó sẽ đem lại rủi ro nhất định cho lập
luận pháp lý của CHXHCNVN.
Nếu VNDCCH chỉ mắc lỗi (3), và sự thật là như thế, lỗi
đó chỉ làm cho VNDCCH mất đi những gì mình có, nếu có, nhưng không gây ra nghĩa
vụ có tính ràng buộc pháp lý cho chính thể này. Do đó, khi VNDCCH và CHMNVN thống
nhất lại thành CHXHCNVN, CHXHCNVN chỉ thừa kế chủ quyền đối với HSTS từ CHMNVN,
không có nghĩa vụ tính ràng buộc pháp lý bất lợi từ VNDCCH để thừa kế.
2.
Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập
niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mĩ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mĩ
đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ
Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mĩ không được xâm phạm đến
lãnh hải Trung Quốc. Công hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam
lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện
đó không có liên quan đến lãnh thổ.
Phản
luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt
đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam
lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lí do tình cảm đó. Thế
nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế,
cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận
và tán thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế
vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu!
Bình
luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 2 của Việt
Nam riêng nó không hoàn toàn bác bỏ được lập luận của Trung Quốc, và phản biện
của Ngô chính xác về một số khía cạnh. Nhưng phản biện của Ngô cũng chỉ nói một
phần của sự thật. Phần kia của sự thật là luận điểm 2 của Việt Nam cũng có giá
trị pháp lý như sau.
The luật quốc tế thì để xét CHPVĐ có bị vướng lỗi
(1) và (2) hay không, tòa sẽ xét xem CH PVĐ có nói cụ thể gì về Hoàng Sa, Trường
Sa hay không, và nếu có nói thì có phải là trong văn cảnh TQ và VNDCCH thảo luận
về Hoàng Sa, Trường Sa hay không. Lập luận 2 của Việt Nam nói lên điều văn cảnh
của CH PVĐ là “hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn
của Trung Quốc ... Công hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam
lên tiếng ủng hộ Trung Quốc” chứ không phải là thảo luận về Hoàng Sa, Trường
Sa giữa VNDCCH và TQ. Như thế, lập luận đó có tác dụng góp phần chứng minh CH
PVĐ không vướng lỗi (1) và (2).
Vấn đề ở đây là phía Việt Nam có người dùng luận điểm
(2) một cách quá mức luật quốc tế cho phép, trong khi Ngô thì cũng bác bỏ ý
nghĩa của nó một cách quá mức luật quốc tế cho phép.
3.
Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt
Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt
Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải
của Trung Quốc.
Phản
luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào
hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ
không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện)
công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại
một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của
công hàm Phạm Văn Đồng.
Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc
Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của
Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận
chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung
Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của
chính phủ Việt Nam.
Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa
thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất
quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho
Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa ra bên ngoài.
Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm
1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản
đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận
trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh
thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Bình
luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 3 “của
Việt Nam” là vớ vẩn. Nhưng theo tôi hiểu thì Việt Nam không chính thức có
luận điểm “để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên
bố Lãnh hải của Trung Quốc”, mặc dù có thể có cá nhân suy diễn như thế. Tôi
cho rằng Ngô đang dựng người rơm lên chém. Nhưng người Việt cũng nên lưu ý
không nên dùng luận điểm vớ vẩn này.
4.
Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó
(1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lí của nước Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt
Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng hòa,
chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp,
chính quyền miền Bắc không có quyền xử lí đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản
luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền
Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố
mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính
quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần
phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ
tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp
pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950,
thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính
thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc
là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó,
chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra
phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho
nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng
này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội
tín phản nghĩa?!
Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả
Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy,
sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì,
những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi
càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là
hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền
“kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì,
chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước
đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà
đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Bình
luận của Dương Danh Huy: Nhiều người (kể cả Ngô) lẫn
lộn chính phủ/chính quyền với quốc gia. Việc lãnh đạo VNDCCH nói chính phủ VNCH
là “Ngụy”, “Bù nhìn” là một động thái chính trị. Nó không có nghĩa VNCH
không phải là một quốc gia. Theo Công ước Montevideo, việc VNCH có phải là một
quốc gia hay không không tùy thuộc vào lãnh đạo VNDCCH nói chính phủ VNCH là
gì. Cũng theo Công ước này, việc TQ công nhận VNDCCH không có nghĩa QGVN/VNCH
không phải là một quốc gia.
Khi CPCMLT CHMNVN ra đời thì VNDCCH đã chính thức đã
công nhận chính thể đó là đại diện pháp lý duy nhất cho miền Nam, tức là đã
chính thức công nhận CHMNVN là một quốc gia khác với VNDCCH.
Không những thế, TQ cũng đã công nhận CPCMLT CHMNVN,
tiếp nhận ngoại trưởng của CP đó, tức là đã công nhận miền Nam là một quốc gia
khác với miền Bắc.
Việc TQ công nhận CPCMLT CHMNVN, cũng như TQ đã công
nhận sự thống nhất là do hiệp thương thống nhất giữa hai quốc gia VNDCCH và
CHMNVN năm 1976, chứ không phải do VNDCCH xâm lăng VNCH/CHMNVN, đã bác bỏ ý kiến
của Ngô cho rằng “việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính
là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có
quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì,
chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước
đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà
đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.”
5.
Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền
lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một
chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông
qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định
vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá
trị.
Phản
luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị
Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định
rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền
Nam Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được
kí kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của
Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã
không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả
chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng
tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không
đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố
mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang
tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính
quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.
Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định,
không còn sức thuyết phục nữa.
Bình
luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của Ngô, “cả
hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính
quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu
chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ”,
ủng hộ quan điểm VNCH và VNDCCH là hai quốc gia, và như thế thì VNCH sẽ là quốc
gia có thẩm quyền lãnh thổ với HSTS, VNDCCH không có. Tức là phản biện này của
Ngô ủng hộ phản biện của Việt Nam dựa trên luận điểm “hai quốc gia”.
6.
Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên
tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa
ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công hàm Phạm
Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực
về pháp luật.
Phản
luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu
nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do
không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc
như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich
pháp luật, sự thực lịch sử....
Bình
luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của phía Việt
Nam là luận điểm sai lầm, không phù hợp với luật quốc tế, và người Việt nên bỏ
nó. Tự loại bỏ bới những luận điểm không đứng vững được sẽ giúp chúng ta thấy cần
tập trung vào lập luận có thể đứng vững được.
Dương
Danh Huy
------------------------
Tin
liên quan:
No comments:
Post a Comment