Có những trận chiến chưa kịp đề trong quân sử
Nhưng kiêu hùng đã vọng mãi ngàn sau
Xin tưởng niệm những thương đau bất tử
Máu can trường vinh dự viết tên anh.
Mèo rằn
Những chiến công rực rỡ nhất được tạo nên là do một
phần đóng góp của những hy sinh vì mục đích chung cho đồng đội, và những chiến bại
gây thương cảm nhất cũng là do sự góp phần của những anh hùng bị lãng quên.
Thật ra, họ cũng là những người bình thường như bao người khác, cũng biết sợ,
và muốn sống, nhưng hoàn cảnh của tình thế đã vực họ đứng thẳng lên hơn và sẵn
sàng đối mặt với cái sợ, đã khiến họ có những hành động anh hùng đáng nể phục.
Hơn
100 hài cốt của chiến sĩ VNCH ở thôn Dương Lâm:
Đó là những người lính và sĩ quan hỗn hợp hơn 100
người gồm Biệt động quân (Trung đoàn 5, Sư đoàn 2), Thủy quân Lục chiến, Nhảy
dù, Địa phương quân, với vũ khí cá nhân nhẹ, và vũ lực có hạn chống chọi với
đoàn quân Bắc Việt chiếm ưu thế trên cả hai mặt, tại chùa Dương Lâm thuộc thôn
Dương Lâm, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam vào ngày 24 tháng 3, 1975. Câu chuyện
bi thương anh hùng nầy được tác giả Liêu Thái (là người lúc bấy giờ sống tại
Quảng Nam) kể lại khá đầy đủ trên trang Người
Việt cách đây gần đã 3 năm (vào tháng 10/2011).
Với số lượng khoảng hai lớp học đó, họ đã bị tàn sát
không chút nương tay, thậm chí một số thương binh buột vải trắng đầu hàng, bằng
những loạt đạn của B40, B41 (dân miền Bắc thường gọi là RPG 2, RPG 7), đại
liên, súng cá nhân, đến nổi chỉ một ít người có cơ may thoát được. Sau hơn một
tuần lễ, họ được vùi lấp vội vàng bởi những người dân vì mùi xác rã xông lên.
Mãi đến khoảng 34 năm sau (năm 2009), một số hố chôn tập thể được khai quật để
cải táng bởi những Phật tử của chùa Dương Lâm. Và khoảng 2 năm sau (năm 2011),
vị trụ trì mới là Thích Pháp Tánh, tiếp tục việc cải táng cho những hài cốt còn
sót lại trong khuôn viên nhà chùa và được ủng hộ, giúp đỡ nhanh chóng từ lòng
thiện tâm của những người trong và ngoài nước.
Hơn
132 hài cốt của chiến sĩ VNCH ở thôn An Dương:
Những ai từng đọc qua tác phẩm “Tháng
Ba Gãy Súng” của cựu Trung úy Thủy quân Lục chiến Cao Xuân
Huy (xin đừng lầm lẫn với Cao Xuân Huy, Giáo sư của Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội từ 1951-1960, với Giải thưởng Hồ Chí Minh), chắc nhớ đến những cảnh di tản
chạy dọc bờ biển Ninh Thuận không lối thoát, lại bị quân Bắc Việt phục kích và
những màn tự tử tập thể của những nhóm chiến sĩ VNCH. Mãi đến 35 năm sau (năm
2011), một người gốc thôn An Dương, chị Tố Thuận, trở về thăm quê nhà từ Mỹ, đã
tự bỏ tiền và huy động sự đóng góp của thân nhân, bạn bè hải ngoại cho công
cuộc cải táng một số hài cốt đó.
90
con Báo đen Biệt Động quân:
Những người hùng Biệt Động quân tự nguyện đứng trong
hàng ngũ của 90 con báo đen theo chủ tướng Thiếu tá Trần Đình Tự tiến hành trận
chiến tại cầu Sạn, huyện Củ Chi, ngoại ô Sài Gòn vào chiều ngày 30/04/1975 dù
lệnh buông súng do Dương Văn Minh đã ban ra, trong bài viết “Con
cọp đen có 13 Răng” của tác giả Nguyễn Khắp Nơi. Sau đó, chỉ còn
lại 13 con báo đen mất hết khả chiến đấu vì không còn đạn. Họ ung dung chuyền
nhau rít những điếu thuốc cuối cùng chờ đợi tử thần như một định mệnh được biết
trước. Dĩ nhiên là, điều sẽ đến như họ nghĩ, khi quân CSBV trói chân tay những
con báo nầy dù đã kiệt sức đề kháng, và hành hình không lâu sau đó.
Hai
chiến binh kiêu hùng VNCH:
“Chuyện về hai Người
lính” là đề tựa cho bài viết của
tác giả Trần Văn Minh kể lại hai cuộc đời kiêu hùng của hai chiến binh VNCH
trong ngày cuối. Một Trần Thanh Tài, Trung đội phó Nghĩa quân thuộc xã Hố Nai,
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, vùng ngoại ô của thành phố Biên Hòa. Anh ta là
một Phó đội lè phè của lính làng nhưng lòng quả cảm khác thường đã biến anh
thành vị anh hùng đáng kính khi một mình ngăn chận bước tiến của quân CSBV cho
anh em Nghĩa quân dưới quyền của mình rút lui và anh phải trả bằng sinh mạng
của chính mình vào những ngày cuối tháng Tư đó. Trong khi dân chúng, và những
đơn vị bạn đã rút hết từ lâu ngoại trừ đơn vị Nghĩa quân của anh ta không hơn
30 người vẫn cố gắng cầm chân đội quân cộng sản đông đảo và mạnh mẽ về vũ lực
gấp nhiều lần.
Một vị Trung úy Thiết giáp (sau nầy mới biết được
tên là Lê Văn Cao) đơn thân chống giữ đoàn xe tăng của quân cộng sản tại ấp Tân
Bắc, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Sau khi hạ được 3 chiếc T54 mới nhất lúc
bấy giờ qua kinh nghiệm chiến đấu của một vị sĩ quan Thiết giáp, anh đã ung
dung tự kết liễu mình trước khi bị bắt sống bởi cuộc lùng kiếm của bộ binh Bắc
Việt. Thân xác anh bị kéo ra và vứt bên đường, và dường như cũng phải chịu trận
đòn thù bị bắn banh lồng ngực đến nổi bảng tên mất luôn họ, nên người dân chôn
cất ghi là Nguyễn Văn Cao. Sự kiện được xác minh khi gia đình tình cờ tìm được
thêm thông tin sau nầy qua bài viết của Trần Văn Minh.
“Anh
em tàn sát lẫn nhau”:
Cho mãi đến 39 năm từ lúc miền Nam thất thế, những
người cộng sản miền Bắc, những người miền Nam tin theo và nhất là những thế hệ
cộng sản sau nầy không ngớt giả nhân giả nghĩa cho rằng cuộc chiến Việt Nam là
do “anh em tàn sát lẫn nhau” hầu bảo minh cho cái chính nghĩa “thống nhất” của
họ vốn có nghĩa là những người cộng sản miền Bắc phải là những người làm nên
“thống nhất” đất nước, là những chủ nhân ông mới. Những người miền Nam tự do dù
dưới bất kỳ hình thức nào chống lại công cuộc “thống nhất” đó có nghĩa là chính
những người miền Nam tự do: nguyên nhân đưa đến cảnh “anh em tàn sát lẫn nhau”.
Có phải chăng lối ngụy biện đó hoàn toàn hữu lý hay
ít ra cũng có chút hợp lý nào đó của nó? Trong khi, chính những người miền Nam
tự do là những người phải chịu hy sinh ngay trên mảnh đất của mình, nhưng lại
“được” gán cho cái tội “anh em tàn sát lẫn nhau”. Trong khi, chính những người
cộng sản miền Bắc xua nhau mang đủ loại vũ khí tân tiến của ngoại bang vào miền
Nam bằng mọi cách để tiến hành cuộc chiến và gây ra những cảnh tàn sát lẫn nhau
khó thể không xảy ra, nhưng những người miền Nam tự do dù cố gắng bảo vệ mình
cũng “được” gán cho tội “anh em tàn sát lẫn nhau”.
Có phải chăng những người miền Nam tự do không ai
mong muốn có được sự thống nhất đất nước nên họ không tiến hành công cuộc “giải
phóng” như những người cộng sản miền Bắc? “Giải phóng” cũng có nghĩa là dùng
bạo lực để tàn sát những đối thủ hầu chiếm lấy một vùng nào đó. Vì vậy, những
người miền Nam tự do chủ trương không dùng bạo lực để “giải phóng” những người
anh em miền Bắc, mà ngược lại, họ cố gắng xây dựng và bảo vệ những gì còn lại
của miền Nam. Vì họ nhìn thấy rằng cuộc chiến Việt Nam không đơn thuần là cuộc
nội chiến mà là một cuộc chiến ý thức hệ trên bình diện cả quốc tế. Có nghĩa
là, những người miền Bắc chịu ảnh hưởng ý thức hệ cộng sản quốc tế với chủ
trương bành trướng chế độ cộng sản dưới sự ủng hộ mạnh mẽ nhất của Trung cộng
vì những lợi ích riêng của chính nó trong đó.
Do đó, những chiến sĩ của VNCH là những người có
chính nghĩa khi bảo vệ cho miền Nam tự do và điều nầy được thể hiện qua những
gương dũng cảm của những anh hùng thời loạn dù phải chịu thất thế vì sự biến
đổi của bàn cờ chính trị quốc tế. Họ không khuất phục chịu thua dù dưới bất kỳ
hình thức nào, dù người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã cố tình đánh đổi họ cho mục
đích khác. Tinh thần chiến đấu của họ vì chính nghĩa không thua kém bất kỳ dân
tộc nào, ngay cả Mỹ, Anh, Pháp, nơi mà họ được tiếp thu và vinh danh hơn nữa
lòng kiên cường đó. Họ chiến đấu cho dân tộc, cho những người miền Nam, không
vì ngoại bang nào cả như những người miền Bắc chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản
quốc tế, cho Trung cộng và Liên Xô. Chính điều nầy đã thể hiện càng ngày càng
rõ hơn sau công cuộc tiến chiếm miền Nam của cộng sản Bắc Việt mà họ luôn luôn
muốn giấu kín trước đây hầu ngụy tạo một chính nghĩa làm nức lòng thanh niên
miền Bắc lao vào cuộc chiến quên mình và nuôi lòng căm thù tột cùng nơi họ đối
với những người miền Nam tự do: nguyên nhân đưa đến cảnh “anh em tàn sát lẫn
nhau”.
Sự
“khoan hồng” của đảng:
Tại sao những chiến sĩ VNCH không chấp nhận sự
“khoan hồng” của đảng khi được kêu gọi trong những ngày cuối của tháng Tư Đen?
Chỉ những chiến binh buông súng sau nầy mới hiểu được ý nghĩa hai chữ “khoan
hồng” đó trong những tháng năm lưu đày, bị hành hạ ngược đãi, lao công trong
những vùng thiêng nước độc, ngoài những tủi nhục khi nhân phẩm bị chà đạp,
khinh rẻ hơn những tù nhân nước ngoài trong những trại tù riêng biệt và chế độ
ưu đãi riêng biệt hơn. Đúng vậy, họ chưa từng hiểu qua ý nghĩa “khoan hồng” đó
nhưng hai chữ “cộng sản” đủ làm cho họ khiếp đảm khi nghe những khoan hồng của
đảng.
Họ, những chiến sĩ cấp thấp, những người lính không
chức vụ, không phải là hàng khanh tướng, quan chức cao, không phải chịu nhiều
trách nhiệm “gánh tội” cho chính thể miền Nam, nhưng họ lại chọn cái chết với
những người bạn đồng ngũ của mình dù phải chiến đấu trong vô vọng, hoặc tự kết
liễu với nhau khi còn vừa đủ vài quả đạn. Không, dĩ nhiên là không phải những
chuyện bịa đặt như những người cộng sản ưu thích đường lối tuyên truyền. Đó
chính là những chuyện mắt thấy tai nghe của những người dân chứng kiến, của
những cấp sĩ quan may mắn sống sót sau những năm tháng “được cải tạo toàn bộ
dáng người xưa”. Đó là những sự thật nhưng chỉ được rỉ tai nhau hoặc chờ đến
những hơn mười năm sau. Vì chúng là những chuyện được gán cho cái danh từ “nhạy
cảm” vốn bao hàm ý nghĩa là “nếu không muốn vào tù”. Đó là danh từ bao quát
trên mọi lãnh vực trong xã hội, chi phối đời sống con người trong đó, mà người
dân phải hiểu đó là “sự nghiêm cấm tuyệt đối” dưới chế độ cộng sản, không cần
giải thích, không cần hợp lý hay phi lý, mà chỉ cần biết tuân theo.
Xin
tri ân:
Dù là thế nào, dù họ là những chiến sĩ thất thế, bại
trận, nhưng chiến thắng cũng không có nghĩa là anh hùng. Vì không ai cho rằng
kẻ cướp chiếm đoạt được một làng mạc nào đó, là những anh hùng. Và kẻ xâm lược
cưỡng chiếm một đất nước khác, càng không phải là những anh hùng. Anh hùng phải
bao gồm cả đức độ về tinh thần, và bản lãnh về thể chất. Trong cả hai trường
hợp trên, hoàn toàn mất đi phần đạo đức con người, dĩ nhiên, không ai bao giờ
xem đó là anh hùng. Thói thường, những kẻ càng cao giọng tự tán dương mình,
chính là những kẻ hèn hạ. Vì thế, họ thích khoe khoang, tự đắc hầu che đậy bản
chất yếu hèn của mình. Không ai ca tụng bạo lực, nên họ dùng mọi thủ đoạn núp
sau mảnh vải đạo đức để đổ cho những hành động bạo lực vì đối phương chủ động.
Đó chính là cách mà cộng sản thường hay tuyên truyền cho cái gọi là “chính
nghĩa” hành động của họ. Tuy nhiên, khi đã gọi là tuyên truyền thì ý nghĩa của
hai chữ “anh hùng” cũng mất hết giá trị thực sự.
Bản chất anh hùng tự nó phát sinh, không cần ai tán
tụng, cũng không cần ai tri ân. Cũng không có nghĩa là chỉ một số người nào đó
mới có bản chất đó. Trong mỗi con người có đầy đủ bản chất như nhau, nhưng ở
những mức độ khác nhau, hoàn cảnh tác động, và môi trường tạo ra. Như ngọn nến
đã có sẵn, chỉ cần mòi lửa, và ngọn gió vừa đủ để bùng cháy hơn là dập tắt nó.
Có phải chăng vì thế người ta hay dùng chữ “xin” đi kèm theo đó? Không ai sẽ
nói rằng họ muốn hay có, cho hay được tri ân. Dù rằng cũng không ít những kẻ
bội ân vì họ nghĩ rằng đó là điều chẳng cần tri ân. Họ sẵn sàng mượn cái chết
của người khác để có cái sống của mình, sẵn sàng khóa lại lương tâm để thực
hiện điều họ muốn, sẵn sàng có những lý luận rất thời đại để biện minh cho cách
sống cá nhân chủ nghĩa. Những điều trừu tượng đó, dĩ nhiên khó thể rờ mó được
như một vật thể, vì vậy không ít người “muốn” không hiểu hoặc cảm thấy khó hiểu,
là điều rất đương nhiên. Như một thân cây trưởng thành cành lá, không tất nhiên
là phải có những trái to và đầy. Một con người có sự phát triển về trí tuệ,
không có nghĩa là toàn phần phẩm chất tư tưởng cũng sẽ phát triển theo như
những người tự xưng hay được tự xưng là trí thức hoặc những người tự xưng hay
thích được tự xưng là Việt kiều nơi những quốc gia giàu có.
Cũng may là, phẩm chất tư tưởng không thể mua bán
được, nếu không cả thế giới nầy sẽ chán ngắt vì nó đã thực sự trở thành thiên
đường hạ giới mà con người không cần phải đưa ra những triết học nhân sinh. Và
những ai càng giàu có, phẩm chất tư tưởng càng có thể được chất đầy trong đầu
để có được phong cách hơn người, đến nỗi không còn chổ chứa. Chắc chẳng cảm
thấy sung sướng gì (?) khi bất chợt nhờ đó, họ phám phá ra chính mình thuộc
loài gì ngoài loài người trong họ.
Xin tri ân các anh, những anh hùng bị lãng quên và
những anh hùng không bao giờ bị quên lãng.
VIDEO
:
TƯỞNG
NHỚ ANH NĂM NGUYỄN ĐÌNH BẢO
NHỮNG
CÁI CHẾT THẦM LẶNG
No comments:
Post a Comment