Thuận
Văn
Tháng 3 21, 2014
Đã có khá nhiều phản ứng nặng thiên kiến quanh việc
Nguyễn Thanh Nghị được “ẵm” lên bệ phóng quyền lực và đã đến lúc chúng ta
cần tỏ ra công bằng, thử đưa ra một biện giải khách quan và khoa học, khả dĩ
nói lên tinh thần “công năng chủ nghĩa” trong chuyện o bế chính trị mệnh danh
“quy họach” hay “cơ cấu” này. [1]
Tính chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý
“quy hoạch” và “cơ cấu” về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa
lý ấy sẽ tìm hiểu sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành, chúng ta cần bắt đầu từ nhân
vật mà, danh chính ngôn thuận, kẻ o hay người được bế ấy không thể không thề
thốt học hỏi thật lòng, học đến tận cuối cuộc đời. Đó là cố lãnh tụ Hồ Chí
Minh, người mà họ phải một điều hai điều “cha già dân tộc”.
Cố lãnh tụ ấy, sinh thời, khá là sắt son trong việc
học tập “cha già”… nước Mỹ, cố Tổng thống George Washington. Khỏi phải đào sâu
trong Hồ Chí Minh tuyển tập dày cộm, chỉ liếc sơ qua đã thấy ông học vị
tổng thống đầu tiên nước Mỹ như thế nào rồi, từ việc hệ trọng quốc gia đến việc
hệ trọng đời người. Ông học trong Tuyên ngôn độc lập. [2] Rồi ông học
việc gia phả, tông đường. [2] Tiểu sử chính thống cho biết ông không vợ không
con nên không người kế thừa quyền lực. Mà theo những tiểu sử phi chính thống
loại “phản động” nhất thì, ít ra, ông cũng có một đứa con trai vô thừa nhận.
[3] Đằng nào cũng vậy, ông giống hệt Washington ở khoản không người kế tục
quyền hành.
Nếu không học Washington thì, như là nhà chính trị
đầy viễn kiến, có thể nhìn trước thời đại theo một số lời ca tụng, rất có thể
ông đã tiên nghiệm được điều mà Stephen Kinzer đã viết vào năm 2011, giữa những
diễn biến nóng bóng của Mùa Xuân Ả Rập: các nhà độc tài không nên có con trai.
Trong bài “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed” (Con cái những nhà độc tài, từ
Ai Cập đến Libya, đều tận số), đăng trên trang mạng The Daily Beast
ngày 2 tháng Chín năm 2011, Kinzer khuyên các nhà độc tài rằng họ không nên có
con trai, nếu lỡ có ra thì hãy siết cổ trừ hậu họa [4]. Kinzer viết, xin
lược dịch:
“Con cái của những bạo chúa thường góp phần gia
tốc tiến trình sụp đổ của cha mình. Chỉ cần hỏi Mubarak. Tổng thống Hosni
Mubarak ở Ai Cập mất sạch quyền lực trong ô nhục phần nào là do ông ta không
lưu ý đến một bài học ẩn khuất trong lịch sử, đó là các nhà độc tài không nên
có con trai. Nhưng phần lớn đám độc tài này lại có. Điều đó lại góp phần thúc
đẩy việc đánh mất quyền lực của họ hay sự sụp đổ đất nước của họ.
Người Ai Cập có thể nén lòng cam chịu thêm một
thời gian nữa nếu như ông Mubarak già nua không huỵch toẹt tuyên bố rằng ông
muốn trao quyền lại cho con trai mình, Gamal Mubarak. Trong toàn bộ những hành
vi kiêu ngạo của ông Mubarak thì không có gì sỉ nhục người dân Ai Cập bằng cách
cho rằng trong 80 triệu dân chỉ có Gamal Mubarak mới xứng đáng làm nhà lãnh đạo
đất nước. Chỉ đơn giản vì ông ta muốn nên Gamal sẽ lên cầm quyền, chả cần đến
lá phiếu của người dân.
Chưa đầy một tuần sau các vụ phản đối ở Ai Cập, Tổng
thống Ali Abdullah Saleh ở Yemen phải ra mặt thề thốt là, có ra đi, ông ta sẽ
không đưa con trai mình, Ahmed, lên làm tổng thống. Cùng lúc, Quốc vương
Abdullah ở Jordan, mới vừa kế vị cha mình, đã ra tay giải tán chính phủ trong
nỗ lực củng cố chế độ. Xem ra hiện tại triều đại Abdullah này có vẻ vững chãi
cũng giống như ở Saudi Arabia, thế nhưng càng ngày quan niệm cho rằng con trai
có quyền thừa kế quyền hành hầu như tuyệt đối của cha mình, càng mất dần sự ủng
hộ.
Một số ít con cái các nhà độc tài vẫn tiếp tục
giữ được quyền lực kế thừa từ cha ông, như Bashar al-Assad ở Syria và Kim Jong
Il ở Bắc Hàn. Nhưng đa số chế độ khác thì thất bại thê thảm. Đặc biệt là Phi
châu với rất nhiều thí dụ. Con trai của Idi Amin, Daniel Arap Moi, và Jomo
Kenyatta không thể giữ quyền lực mà cha họ cố trao lại. Gần nước Mỹ hơn,
Jean-Claude ‘Baby Doc’ Duvalier, nhậm chức Tổng thống Haiti sau khi cha qua đời
nhưng không thể nào giữ được; các nỗ lực giành lại chính quyền của ông ta trong
thời gian qua đã bị ngăn cản rất nhiều vì trí nhớ người dân không chỉ in hằn sự
tham nhũng và tàn bạo dưới thời ông ta mà cả của thời của cha ông ta nữa. […]
Các
nhà độc tài phải làm gì để thoát khỏi lời nguyền này? Có ba chọn lựa. Một là ‘sợi dây lụa’ từng được các giáo vương của Ðế
quốc Ottoman ưa chuộng. Họ cho giết con trai của mình – siết cổ bằng sợi dây
lụa để tránh đổ máu vì máu hoàng tộc quá thiêng liêng – để trừ hậu hoạ. Trông
thì tàn bạo thật nhưng giới ủng hộ truyền thống này cho rằng số người chết vì
nó quá nhỏ so với số người thiệt mạng trong các cuộc chiến giành ngôi ở Âu
châu.
[…] Giải pháp thứ hai là không có con. Ðó là con
đường của George Washington – một số sử gia cho rằng việc mắc bệnh đậu mùa lúc
thiếu thời khiến ông tuyệt tự – và điều này có thể có một ảnh hưởng lớn lao với
lịch sử Mỹ. Tư tưởng quân chủ vẫn rất mạnh trong thời Washington và ông nhận
được sự sùng bái của công chúng đến nỗi nếu có con trai, có thể sẽ có nhiều áp
lực để đưa người con lên làm tổng thống. Ðiều đó có thể đã đưa nước Mỹ đi theo
một hướng hoàn toàn khác.
Khi thắc mắc là tại sao Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc
gia thịnh vượng nhất trong thế giới Hồi giáo tại Trung Ðông, chúng ta không nên
bỏ qua sự thể là lãnh tụ khai quốc, ông Kemal Ataturk, cũng không có con. Cũng
giống như Washington, ông được cả nước ngưỡng mộ và có thể dễ dàng cho con trai
mình kế nghiệp. Thay vào đó, cũng như Washington, ông ta nhẹ nhàng rút lui khỏi
quyền lực để dân chủ rộ nở trên đất nước mình.
Còn có giải pháp thứ ba: đẻ con gái thay vì con
trai. Lịch sử cho thấy rằng con gái của các nhà độc tài có khuynh hướng trở
thành những nhà lãnh đạo giỏi, nhiều khả năng. Trong số này, ta có thể kể bà
Megawati Sukaroputri ở Indonesia, bà Benazir Bhutto ở Pakistan, bà Sheikh
Hasina ở Bangladesh, và bà Indira Gandhi ở Ấn Ðộ. Có vẻ như họ thừa hưởng được
khả năng lãnh đạo và vận dụng quyền lực của cha mình, và dẫu không vượt qua
thói tham nhũng, họ có khuynh hướng cởi mở hơn, dễ dàng chấp nhận thoả hiệp hơn
và không bị lôi kéo vào những trò chơi đầy kích thích tố như đua xe, ma túy và
tra tấn.
Ðáng tiếc cho Mubarak
là đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”.
Tính đến lúc đó, tháng Chín năm 2011, thì đã quá trễ
cho Mulbarak nhưng nếu tính đến bây giờ, tháng Ba năm 2014, có trễ chút nào đối
với cha con nói trên, và với bộ máy quyền lực của họ hay không?
Không đoái hoài đến lời khuyên của Kinzer đã đành,
nhưng khi mà phong trào “Học tập Bác” đã ầm ĩ từ bao nhiêu năm nay, lẽ nào họ
không mảy may biết rằng người khai sinh ra chế độ mình đã thực sự ngộ được điều
ấy, y như là người khai sinh nước Mỹ? Như là những học trò “xuất sắc” của
Bác, ắt họ phải biết. Biết Bác mà không chịu học Bác thì, ắt hẳn, họ đã tìm ra
bài học khác hay hơn; thứ bài học như là bảo bối, một “anti-dote” có thể xoá
sạch “lời nguyền con trai”, bảo đảm rằng con trai của những nhà chuyên chế cũng
có thể nối ngôi và góp phần bảo vệ quyền lực của nhà mình.
Trên khía cạnh này chúng ta hãy có thể nhìn ra “công
năng” của Nguyễn Thanh Nghị qua lời khuyên mà Matt Ford đã đưa ra trong những
ngày sôi động tại Ukraine vào trung tuần tháng Hai. [5] Trong bài “A Dictator’s
Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square and the revolutionary
dimensions of public spaces.” (“Hướng dẫn của những nhà độc tài về thiết kế đô
thị – Quảng trường Độc lập của Ukraine và những chiều hướng cách mạng của những
không gian công cộng”, đăng trên tờ The Alantic 21.2. 2014, tác giả này
nhận định:
“Ukraine có kích thước tương đương với tiểu bang
Texas của Mỹ nhưng trong suốt ba tháng qua phong trào phản kháng ngày càng lan
rộng của nó, phần lớn, dồn ứ vào không gian của 10 khối phố.
Tên của phong trào, Euromaidan, là một từ mới hình
thành từ tiền tố euro, thể hiện thái độ nhích lại gần hơn với EU
và tách xa nước Nga của phe đối lập, với từ maidan trong tiếng Ukraine
(gốc từ tiếng Ba Tư và Ả Rập), có nghĩa là quảng trường. Và thuật ngữ này không
chỉ biểu lộ vị trí của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Độc lập của thành phố
Kiev. Ukraine thuộc về châu Âu về mặt địa lý nhưng những người biểu tình còn
coi Âu châu như một tư tưởng, hàm ý một ‘nền dân chủ thực sự, với một lực lượng
cảnh sát đáng tin và thực tâm tôn trọng nhân quyền’.
Cái tên ấy nói lên một hiện tượng ngày càng phổ
biến: quảng trường công cộng đóng vai tâm chấn cho sự bày tỏ dân chủ và tinh
thần phản kháng, và việc thiếu một nơi như vậy – hoặc các hành động có chủ đích
về một không gian như vậy – là cách thức để những nhà chuyên chế dập tắt các
nhóm bất đồng chính kiến thông qua việc thiết kế đô thị.
Không phải trung tâm của tất cả các cuộc cách
mạng đều ngự tại quảng trường, nhưng những cuộc cách mạng mới đây đã diễn ra
như thế, kể cả các cựu cộng hoà Xô viết. Cuộc Cách mạng Hoa hồng Gruzia lật đổ
Tổng thống Eduard Shevardnadze năm 2003 đã xuất phát từ Quảng trường Tự do ở
Tbilisi. Năm 2005 những người phản kháng Kyrgyzstan đã chiếm lấy Quảng trường
Ala-Too từ tay cảnh sát rồi mau chóng tiến vào dinh tổng thống gần đó, lật đổ
Tổng thống lâu năm Askar Akayev. Cuộc Cách mạng Cam của Ukraine năm 2004 cũng
diễn ra tại Quảng trường Độc lập, ngay tại nơi mà người biểu tình hiện tại đang
đụng độ một cách đẫm máu với lực lượng chính phủ, gây áp lực đòi Tổng thống
Viktor Yanukovych phải tổ chức bầu cử sớm và trở lại với hiến pháp 2004.
Tính biểu tượng của quảng trường đã nảy nở thêm tiềm
năng mới trong Mùa Xuân Ả Rập. Viết trong những ngày ngây ngất của cách mạng Ai
Cập, một thời gian ngắn sau sự sụp đổ của Hosni Mubarak năm 2011, một tiểu luận
gia đã hùng hồn giải thích việc Quảng trường Tahrir thể hiện sự đàn áp rộng lớn
hơn đối với xã hội dân sự Ai Cập như thế nào. Quảng trường này được xây dựng
lần đầu tiên vào thế kỷ 19, dựa trên một thiết kế kiểu ‘Paris bên bờ sông Nile’
cho Cairo, sau đổi tên thành Quảng trường Tahrir (Giải phóng) khi nó trở thành
tiêu điểm cho các cuộc cách mạng Ai Cập vào năm 1919 và 1952:
‘Trên thực tế, trong những tuần qua, Tahrir đã thực
sự trở thành một quảng trường. Trước kia nó chỉ là một vòng xoay giao thông
rộng lớn và bận rộn – và lại nữa – hạn chế của nó là hệ quả của việc thiết kế
chính trị, từ chính sách không chỉ ngăn ngừa mà còn cấm ngặt việc tụ tập đông
người. Theo luật khẩn cẩp – ban hành từ khi Mubarak nhậm chức vào năm 1981 và
vẫn chưa được xoá bỏ – thì việc tụ tập chỉ một vài người lớn tại nơi công cộng
cũng có thể dẫn đến việc bắt bớ. Như hết thảy những chính quyền chuyên chế,
chính quyền Mubarak hiểu được sức mạnh của một quảng trường thực sự, nơi mà các
công dân có thể gặp nhau, dạo chơi, tản bộ, tụ họp, phản đối, trình diễn và
chia sẻ ý tưởng, và hiểu rằng một midan thực sự – quảng trường kiểu Ả
Rập – chính là bản tuyên ngôn vật thể của nền dân chủ.
Ở Tahrir điều này ngụ ý việc dựng hàng rào và phân
chia thành những bãi cỏ và lối đi dễ quản lý. Hãy nêu ra một thí dụ nổi bật:
cho đến thập niên 60 thì phần lớn quảng trường nằm ở trước mặt Bảo tàng Ai Cập
là một bãi cỏ rộng với những lối đi đan chéo và một đài phun nước lớn. Tại đây
các gia đình và sinh viên có thể tụ tập cả ngày và, với những đôi tình nhân, nó
còn là điểm hẹn hò nổi tiếng giữa trái tim thành phố. Nhưng từ thập nhiên 70
chính quyền đã dựng hàng rào quây kín mà không chịu giải thích rõ số phận của
điểm hẹn ưa thích này. Người Cairo suy đoán rằng khu này bị quây lại để xây
dựng tuyến xe điện ngầm Cairo Metro hay những dự án hạ tầng cơ sở khác. Đâu đó
trong thập niên trước một tấm bảng xuất hiện, thông báo việc xây dựng một bãi
đậu xe ngầm nhiều tầng bên dưới. Trong những cuộc phản đối tại Quảng trường
Tahrir Square, những người biểu tình đã giỡ hàng rào ra rồi sử dụng làm tấm
khiên bảo vệ, ngăn cản các vụ tấn công của đám lưu manh ủng hộ Mubarak — và
việc tháo giỡ này cho thấy chẳng có một công trình xây dựng nào như hứa hẹn.
Quả là một di sản đô thị của Mubarak.’
Bề mặt của Cairo đã biến Quảng trường Tahrir
trở thành một địa điểm lý tưởng để tung ra một cuộc cách mạng. Toạ lạc tại
trung tâm thành phố lớn nhất của Ai Cập, Tahrir nằm sát quốc hội, tổng hành
dinh đảng chính trị của Mubarak, dinh tổng thống, nhiều toà đại sứ nước ngoài,
và các khách sạn đầy phóng viên quốc tế để có thể truyền phát hình ảnh của các
cuộc biểu tình đến với khán giả khắp thế giới. Sau khi Mubarak bị hạ bệ, các
quảng trường rộng rãi ở các thủ đô Ả Rập khác cũng đã trở thành các đấu trường cách
mạng tương tự. […]
Trong nhiều đường hướng thì người Pháp đã đi đầu
trong việc áp dụng việc thiết kế đô thị với mục tiêu chính trị. Vào những năm
đầu thế kỷ 19 thì về căn bản Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ, ngộp
thở với sự chật chội và thiếu thốn hạ tầng. Tiến trình cải tạo đô thị của Baron
Haussmann dưới triều Napoleon Đệ Tam vào các thập niên 1850 và 1860 đã mang lại
cho Kinh thành Ánh Sáng một hệ thống cống rãnh hiện đại, các công viên ngoại ô
xinh đẹp và một hệ thống trạm xe lửa. Ông ta cũng chộp lấy cơ hội này để triệt
phá các khu ổ chuột ô hợp, tống khứ những cư dân cùng khổ về vùng ngoại ô và
thay thế những ngả hẻm chật hẹp bằng những đại lộ thoáng đãng. Trong trường hợp
xảy ra nổi dậy, như đã diễn ra trong những năm 1789, 1830, và 1848, nhà cầm
quyền Pháp hy vọng rằng những con đường rộng hơn sẽ vừa làm khó những nhà cách
mạng Paris trong nỗ lực thiết lập hàng rào chướng ngại, vừa tạo thuận lợi để
các đội hình binh lính Pháp tiến vào đàn áp.
Kiểu tính toán đó vẫn tiếp tục cho đến tận hôm nay.
Năm 2005, nhóm quân phiệt cầm quyền Miến Điện dời trụ sở chính quyền từ Yangon,
một thành phố rực rỡ sắc màu của 5 triệu người, tới Naypyidaw nằm sâu trong nội
địa với mục đích an ninh. Biệt lập với các khu dân cư khác, dân số Naypyidaw –
chủ yếu là các giới chức chính quyền và quân sự – chỉ dành thời gian tối thiểu
ở thành phố hoang vắng kỳ lạ này. Các giới chức Miến tuyên bố gần một triệu
người sống ở đây, dù con số thực sự có thể thấp hơn thế, rất nhiều.
Hai năm sau đó, năm 2007, khi cuộc Cách mạng màu
Vàng Nghệ nổ ra thì các cuộc biểu tình lớn làm rung chuyển các thành phố Miến
Điện khác không bao giờ diễn ra ở Naypyidaw, và những tên quân phiệt vẫn tiếp
tục nắm quyền lực sau một cuộc đàn áp nhanh chóng nhưng tàn bạo. Thậm chí cả
khi dân số thành phố đã đủ lớn cho các cuộc biểu tình thì chúng sẽ diễn ra ở
đâu? Những đại lộ rộng rãi phân ranh giới các khu dân cư dành riêng cho quan
chức, không có quảng trường công cộng hoặc một nơi chống để làm trung tâm tụ
tập cho những người dân cứng cổ hay hiền lành. Thậm chí dinh tổng thống còn
được bao quanh bằng một hào sâu và một ký giả đã mô tả thành phố này như là một
‘nền độc tài trên phương diện bản đồ học’.
Trong khi đó thì Tổng thống Nursultan Nazarbayev của
Kazakhstan lại dời ghế ngồi quyền lực của mình về Astana, sâu trong thảo nguyên
Kazakh, thành phố tràn ngập những đường nét kiến trúc vị lai khiến khách viếng
thăm hoa cả mắt. Tổng thống Nga Vladimir Putin thì tìm cảm hứng trong quá khứ:
từ năm 2008 ông ta đã khôi phục truyền thống duyệt binh hoành tráng của thời Xô
viết ở Hồng trường của Moskva nhằm biểu dương sức mạnh. Vẫn chưa rõ ý ư? Chính
quyền Arab Saudi sử dụng Quảng trường Deera ở Riyadh để tiến hành các các vụ
chặt đầu, công khai và chính thức.
Những nơi khác thì tinh vi hơn. Ở Bình Nhưỡng, thủ
đô hà khắc của nhà nước toàn trị cuối cùng trên thế giới, sự tuân phục răm rắp
đã lộ ra theo từng khối bê tông kềnh càng thô vụng. Chỉ những công dân trung
thành nhất của Bắc Hàn mới được phép cư ngụ trong những chung cư giống hệt nhau
của thành phố, đặc điểm chung của phong cách thiết kế đô thị Stalinist. Thành
phố lớn nhất của Bắc Hàn định hình với ‘những tượng đài lớn của một thứ thẩm mỹ
đầy khả nghi rải khắp thành phố, nối với nhau bằng những đại lộ kiểu Haussman
rộng một cách vô nghĩa lý và những quảng trường khổng lồ nhưng trống rỗng,
không một bóng người. Không gian công cộng chỉ tồn tại để tôn sùng nhà nước và
cá nhân những lãnh tụ họ Kim.
Nếu sự trương phì quá mức của không gian công cộng
có thể là điều xấu thì Quảng trường Thiên An Môn của Trung Quốc là vi phạm tệ
hại nhất. Như một nghịch lý, quảng trường lớn thứ tư trên thế giới này có thể
xem như là ‘sự đối lập với không gian công cộng’ như Tim Waterman và Ed Wall đã
viết trong cuốn sách của họ về kiến trúc cảnh quan. ‘Quy mô toàn trị’ của Thiên
An Môn đã khiến ‘các cá nhân trở nên nhỏ bé và buộc họ cảm thấy phục tùng quyền
lực nhà nước. Đó là không gian phù hợp nhất cho việc duyệt binh với súng đạn
chứ không phải để công chúng thưc sự tham gia vào đời sống thường nhật của đô
thị.’ Cuộc đàn áp bằng xe tăng đối với các nhà dân chủ tại quảng trường này vào
năm 1989 là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng những cuộc biểu tình quy mô lớn có
thể thất bại như thế nào.
Không phải nhà độc tài nào cũng thành thạo việc
thiết kế đô thị. Việc tái thiết kế đại quy mô thủ đô Bucharest của lãnh tụ độc
tài Nicolae Ceauşescu ở Rumani trong những năm 1980 đã xoá sạch một phần năm
diện tích thành phố lịch sử này để dựng nên một mớ hổ lốn những cấu kiện bê
tông, bao gồm cái trụ sở quốc hội lớn nhất thế giới chiếm ngự cả đường chân
trời của Bucharest. Không một yếu tố nào trong đó ngăn cản được đám đông vĩ đại
phản kháng ông ta sau bài phát biểu tại Quảng trường Cách mạng vào tháng 12 năm
1989. Vài ngày sau đó, Ceauşescu bị tóm cổ, bị kết án, và bị xử bắn. […]”
“Quy hoạch” hay
“cơ cấu” để con cái tiếp tục làm vua có thể khiến cho công chúng nổi giận và
vấn đề, như Ford đã nêu, không phải là đầu hàng mà là “quy họach” và “cơ cấu”
lại không gian đô thị như thế nào để có thể dập tắt cơn giận ấy, tránh khỏi vết
xe đổ của Mubarak và Ceauşescu?
Có
lẽ, những nhân vật chịu trách nhiệm cao nhất cho tuổi thọ của chế độ toàn trị
tại Hà Nội đã tính đến điều này khi ẵm cậu trưởng nam của ngài Thủ tướng đặt
vào những cái ghế ngồi quyền lực. Có thể lắm. Tính được cả việc khiêu vũ để ngăn cản một nhúm người hoài
cổ, muốn đặt vòng hoa trong ngày kỷ niệm chiến tranh thì, với chuyện hệ trọng
như mạng số của chế độ mình, có gì mà họ không thể tính tới? Mà cũng không cần
phải tính nhiều lắm, chỉ cần liếc sơ qua cái toát yếu lý lịch, có thể thấy rằng
cậu quý tử ấy hội đủ điều kiện để giúp cha cậu, hay chế độ của cha con cậu,
không giẫm lên vêt xe đổ nói trên.
Thì cậu ta tốt nghiệp kiến trúc tại Việt Nam. Thì,
cậu ta tốt nghiệp tiến sĩ civil engineering tại Mỹ. Ngành đó, ngày xưa,
một nửa nước Việt Nam gọi là “công chánh”, và như một chuyên viên công chánh,
cậu ta cũng là đồng nghiệp bề trên của những ông trùm khủng bố cỡ lớn như Osama bin Laden hay
Yasser Arafat, vốn là hai kỹ sư công chánh. Đến chết thì bin Laden vẫn còn là
một tên khủng bố còn Arafat thì, trước khi gác chất nổ lúc gần cuối cuộc đời,
từng là mối ám ảnh khủng bố của thế giới trong thập niên 70 và 80. Như là những
chuyên viên công chánh, họ có hiểu biết chuyên môn cần thiết để xác định đâu là
nơi phải đặt bom và phải đặt bom như thế nào thì mới đạt tới hiệu suất khủng bố
cao nhất.
Tiến
sĩ công chánh Nguyễn Thanh Nghị được bế vào những bệ phóng quyền lực, có lẽ,
cũng được bế với chủ tâm “hiệu suất khủng bố cao nhất” ấy.
Không phải ngẫu nhiên mà “Mùa Xuân Ả Rập” lại… “diễn
biến” thành “Mùa Xuân Nguyễn Thanh Nghị” tại cái nơi mà nhà cầm quyền đang ngay
ngáy “chống diễn biến”. Không khí cách mạng ở bên kia càng hực nóng bao nhiêu,
đường hoạn lộ của Nguyễn Thanh Nghị ở bên này càng thênh thang bấy nhiêu.
Hãy nhớ lại những ngày ê chề của cậu ta trong cuộc
đua vào Thành ủy TPHCM trong Đại hội 9 của Đảng bộ này vào thượng tuần tháng
Mười năm 2010. Đường đường là trưởng nam của một ủy viên Bộ Chính trị vai vế,
cậu ta bị lọai khỏi cuộc chơi một cách nhục nhã khi chỉ nhận được có 17 phiếu
trong tổng số 400 phiếu bầu. Đó là chặng đua đầu, là cửa ải bắt buộc trước cuộc
chạy đua vào Trung ương theo nguyên tắc “dân chủ tập trung” và, với cậu, tình
thế xem ra đã hết đường.
Nói theo các nhà tướng số thì cái mà cậu ta cần lúc
này là một “quý nhân giúp đỡ” và ai cũng dễ dàng chụp mũ rằng “quý nhân” ấy
phải là người cha quyền lực của cậu mà không chịu để ý đến “Mùa Xuân Ả Rập”.
Giữa cuộc đấu đá quyết liệt chốn thâm cung ấy ông cha vai vế cũng chẳng xoay xở
được gì nhiều nếu không có cuộc Cách mạng Hoa Lài. Sự không may của cha con
những gia đình nhà độc tài Ả Rập lại là cái may của cha con cậu: cha cậu khó mà
ẵm cậu vào ngai vàng nếu cách mạng không bùng phát tại vùng đất xa cách ấy.
Chỉ vài tuần sau thất bại ê chề “17 phiếu” ấy thì
cách mạng nổ ra. Ngày 18 tháng Mười Hai năm 2010, cuộc nổi dậy tại Tunisia bùng
nổ thành cuộc cách mạng và từ đây làn sóng dân chủ lan tràn sang các nước làng
giềng, Algeria, Jordan, Ai Cập và Yemen. Chỉ trong vòng mấy tháng đã có mấy
chính phủ bị lật hay ít ra hay rung rinh, xuống nước; đã có hàng lọat
lãnh tụ từng được xem là bất khả xâm phạm phải lưu vong, bị tước hết quyền hành
hay kết liễu sinh mạng một cách thê thảm. Sự dồn dập của không khí cách mạng
khiến các chế độ độc tài khác lo sợ và báo động. Bắc Kinh lo sợ và báo động. Hà
Nội, cũng lo sợ, báo động và, từng bước từng bước, họ nghĩ lại, họ ẵm cậu ta
lên những nấc thang quyền lực cao hơn.
Đầu tiên,
tháng Giêng năm 2011, chỉ vài tuần sau khi cách mạng nổ ra tại Tusina, Đại hội
toàn Đảng ở Hà Nội đã ẵm Nguyễn Thanh Nghị bế thằng vào Trung ương như một ủy
viên dự khuyết, bất chấp nguyên tắc “dân chủ tập trung”. Không khí cách mạng từ những quảng trường Ả Rập càng nóng lên, cậu ta
càng được chú ý, càng được “cơ cấu” và “quy hoạch” cao hơn, đúng với… công năng
“quy hoạch” và “cơ cấu” của một chuyên gia công chánh. Tháng Mười Một năm 2011,
từ một chân Ủy viên Trung ương “đậu vớt”, hoàn toàn không có kinh nghiệm công
quyền, cậu ta được bế vào nội các như một Thứ trưởng chuyên trách việc
“chỉnh trang đô thị”. [7]
Điều làm họ nghĩ lại, ắt hẳn, phải là mẫu số chung
giữa những “không gian cách mạng” tại các xứ sở như Ai Cập và “công năng” của
một chuyên gia có khả năng khủng bố bằng… bê tông.
Thật vậy. Khi bin Laden hay Arafat dùng chất nổ phá
tung những khối bê tông, họ đã đánh vào tâm lý của đối thủ, buộc đối thủ phải
triền miên sống trong cảnh nhấp nhỏm, bất an. Nhưng khi những nhà cầm quyền
Miến Điện, Bắc Hàn, Kazakhstan, Trung Quốc v.v. cho đổ những mẻ bê tông
trong các dự án “cơ cấu” hay “quy họach” thủ đô, họ cũng tiến hành cái công
việc khủng bố ấy không hơn không kém. Như những nhà cầm quyền nhấp nhổm
bất an, họ tìm mọi cách để áp chế sức công phá từ trái tim con người, để đè nén
những không gian ở đó con nguời có thể tập hợp lại với nhau, có thể truyền cảm
hứng và nuôi dưỡng khát vọng cho nhau. Những đám đông như thế cần sống cho nhau
và cho đất nước của mình, nhưng cái mà thể chế bạo quyền đòi hỏi là đám đông
kia phải sống cho họ, vì họ, vì riêng cái thể chế của họ.
Chắc hẳn bộ máy cai trị đang nhấp nhổm
bất an tại Hà Nội đã ý thức được rằng họ không thể mãi mãi bảo vệ “nhà nước
pháp quyền” của mình bằng cách đơn thuần trông cậy những trò du kích đá cá lăn
dưa. Họ không thể mãi mãi trông cậy vào những bô cứt hay lọ mắm tôm thối ném
vào đám đông hay những cái “condom đã qua sử dụng” ném vào khách sạn. Họ không
thể vĩnh viễn trông cậy vào đám đông nhếch nhác, “tùng tam tụ ngũ” mấy ông già
hom hem mệnh danh “cựu binh” hay “thương binh”, mồm sặc sụa mùi rượu, lưỡi dẻo
quánh những tiếng chửi thề. Và họ cũng không thể vĩnh viễn dựa vào đám “vũ
viên” trâng tráo, vừa nhón gót trên những trang sử thương đau nhất, vừa láo
ngoáy mông trước mặt một trong những vị vua công lao nhất.
Quá khứ
Maoist và kiểu cách mạng “nông thôn bao vây thành thị” đã lùi xa. Mạch sống mới
đang bùng nổ tại thành thị với sự trưởng thành của giai tầng trung lưu và khát
vọng cháy bỏng về một xã hội dân sự. Mà, với Facebook, với các hình thức cà phê
dân chủ, ở quán cóc vỉa hè hay quán ảo Internet, không gian đô thị Việt Nam
đang nhân lên đa chiều, rộng hơn mà đậm đặc hơn, sâu hơn mà cao hơn, tiềm
tàng sức bật cho một cuộc cách mạng đô thị. Và đó là
điều đã khiến những nhà toàn trị tại Hà Nội nhấp nhổm bất an và họ, nói theo
ngôn ngữ của chính họ, nhận ra nhu cầu phải “nâng” cái chiến thuật cũ nát của
mình lên “một tầm cao mới”. Từ tính chất phi quy ước và tủn mủn xưa cũ, họ phải
hướng tới một tầm cỡ “quy ước “ hơn. Họ phải “quy hoạch” và “cơ
cấu” lại đô thị để tạo ra những kiến trúc đô thị mang tính “phản cách mạng” hay
“phản giải phóng”, không giẫm lại vết xe ở Bucharest hay tại Cairo, có thể bảo
đảm rằng Mubarak vẫn có thể tiếp tục cầm quyền cho dù nhân dân Ai Cập đùng đùng
nổi giận trước việc “quy họach” hay “cơ cấu” Gamal Mubarak làm người kế vị.
Từ đầu chúng ta đã nhắc đến “công năng chủ nghĩa”.
Và chúng ta đang nhắc đến “kiến trúc đô thị” nên, do đó, không thể không nhắc
đến Le Corbusier, một trong những nhà kiến trúc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, cha
đẻ của trường phái Functionalism với phát biểu nổi tiếng “Nhà là một cái
máy để ở”. Nếu nhà là một thứ máy để ở thì đô thị, với các nhà toàn trị, và có
thể thấy qua những gì đã trình bày ở trên, sẽ là một thứ “máy” để đàn áp và
khủng bố. Nếu “cỗ máy đàn áp – khủng bố” của chế độ toàn trị đã chằng chịt với
những bộ máy đoàn thể, tuyên truyền, công an, mật vụ nhà tù hay cái
condom và bô cứt v.v. thì nay sẽ có thêm những mẻ bê tông, với ông thứ trưởng
bê tông đang được ẵm vào một bệ phóng chính trị khác để từ đó còn lên cao
hơn nữa.
Đó chính là tính chất “công năng chủ nghĩa” trong
việc ẵm bế chính trị bất kể nguyên lý dân chủ tập trung.
Trong bài viết trên Kinzer đã tiếc thay cho Mubarak
là “đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”.
Nhưng trai hay gái, đó là số phận, là trời cho chứ không phải là chọn lựa và,
hôm nay là thế kỷ 21, không một người dân nước nào thể chấp nhận một lãnh tụ
siết cổ con mình. Có tiếc, Mubarak chỉ nên tiếc là đã không cho con trai học
nghề khủng bố bằng bê tông như cậu trưởng nam của ông Thủ tướng nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
[7]
Nhưng tiếc cái học của con chỉ là chuyện nhỏ và đáng
ra thì Mubarak phải tiếc cho cái học của mình. Tiếc đã không khiêm tốn. Tiếc
chỉ nhắm mắt tin tưởng vào ưu thế chính trị phù du trước mắt mà không chịu nhìn
trước nhìn sau, không chịu nhìn cùng khắp thế giới và nhìn sâu trong lịch sử để
học, để mang lại những cái hậu hay hơn, riêng cho mình và chung cho đất nước,
cho nhân dân của mình.
Cái đó, chúng ta gọi là “vô hậu”. Mà, trong lối chửi
nhau của người Việt, đặc biệt là với người Huế vốn khét tiếng chửi có tích
tuồng và bài bản thì “vô hậu” là tiếng chửi cay nghiệt nhất, độc ác nhất.
Và đau đớn nhất….
19.3.2014
___________
Chú
thích
[1] Nguyễn Thanh Nghị được cử làm phó Bí thư Tỉnh ủy
Kiên Giang. Đây là một phần trong quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư:
“luân chuyển cán bộ về địa phương” để “chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo
cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị ở Trung ương nhiệm kỳ tới”.
[2] Tác giả chính của ban Tuyên ngôn độc lập
Mỹ là Thomas Jefferson nhưng người chính thức tuyên bố là George Washington,
tại New York City ngày 9.7.1776.
[3] Bùi Tín, “Hồ
Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung”, RFA, 2007
[4] Stephen Kinzer. “Dictators’
Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed”, The Daily Beast, 2011
[5] Trên thực tế thì các giáo vương chỉ giết anh em
mình – đặc biệt là anh em cùng cha khác mẹ – để bảo vệ ngai vàng. “Tập
tục” sơi dây lụa này chỉ bắt đầu khi Murad III (1546 –1595) lên ngôi vào năm
1574, về sau về sau biện pháp dây lụa này được thay thế bằng giải pháp giam cầm
trong cấm cung.
[6] Matt Ford, “A
Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square, and the
revolutionary dimensions of public spaces”, The Atlantic, 21-2-2014
[8] Gamal Mubarak học quản trị hành chánh, lấy bằng
MBA và làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trước khi tham chính.
© 2014 Thuận Văn & pro&contra
No comments:
Post a Comment