Phóng sự
điều tra của Tô Văn Trường
24/03/2014
Tự đặt tên thể loại là “phóng sự điều tra” nhưng thực tế đây là một bài
viết nghiêm chỉnh, mổ xẻ khá kỹ lưỡng con đường hình thành một nhân cách lãnh
đạo ở cấp cục vụ viện thuộc một ngành nghiên cứu kỹ thuật vào hàng quan trọng
là nông nghiệp, trong bộ máy kinh tế của Nhà nước chúng ta. Con đường nhiều
khuất khúc của cá nhân này rốt cuộc đã dẫn đến những hậu quả tất yếu về tất cả
những gì nằm trong tay con người đó – từ tổ chức khoa học được lập ra và bị
thao túng, cho đến những chương trình nghiên cứu “thượng vàng hạ cám” mà xem ra
không một chương trình nào có hiệu quả, rồi đến cả những khoản kinh phí vô cùng
lớn trong bao nhiêu năm Nhà nước đã ưu ái đổ vào cho những chương trình kia
song cái gì thu lại thì vẫn còn là một dấu hỏi lớn tướng. Người viết, bằng
những lời lẽ kiềm chế, đã giúp chúng ta hiểu rõ về một con người cùng cái cơ
chế tạo nên anh ta.
Lâu nay trên báo chí thường có nhiều bài than thở về tình hình kinh tế
đất nước đang chịu rất nhiều hiểm họa, bộ máy công quyền thì quan liêu lãng
phí, làm việc không hiệu quả, tham nhũng tràn lan khắp nơi. Nhưng phân tích
thật sâu vào trường hợp một số cá nhân người lãnh đạo có danh tính hẳn hoi để
rút ra bài học thích đáng cho không chỉ một ngành mà cho toàn bộ cơ cấu (vốn
rất cồng kềnh) của nền khoa học công nghệ nước nhà, thậm chí cả các ngành khoa
học cơ bản, về tự nhiên cũng như xã hội, thì hình như chưa một nhà nghiên cứu
nào cất công làm thí điểm. Trên tinh thần ấy, chúng tôi hoan nghênh sự mạnh bạo
đầy trách nhiệm của TS Tô Văn Trường và xin trân trọng giới thiệu với độc giả
bài “phóng sự điều tra” nóng hổi của ông.
Nguyễn
Huệ Chi
--------------------------------
Sau khi tôi viết bài “Toàn cảnh màu xám của ngành
nông nghiệp” được rất nhiều bạn đọc trong và ngoài ngành quan tâm, chia sẻ. Có
ý kiến cho rằng khuyết điểm của ngành thì Bộ trưởng gánh chịu trách nhiệm là
phải nhưng tham mưu “chỉ lối, dẫn đường” cho ông là ai? Nhiều chuyên gia kỳ cựu
trong ngành kể cho tôi nghe tường tận về “bồ ruột” của Bộ trưởng, là Tiến sĩ
Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông thôn
(IPSARD). Tham khảo các nguồn thông tin, tư liệu, điều tra đối chiếu với thực
tế, tạm thời vẽ lên chân dung của “người cầm đèn chạy trước ô tô” của Bộ
NN&PTNT thành viên Hội đồng lý luận trung ương, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn.
Trước hết, xin được lược qua tiểu sử của anh Đặng
Kim Sơn: Sinh năm 1954 tại Thái Bình, tốt nghiệp đại học Nông nghiệp ngành nông
hóa năm 1976. Từ 1977-78: tham gia Quy hoạch nông nghiệp Đồng bằng Sông Cửu
Long. 1979-1980: làm việc tại Tổng cục Khai hoang kinh tế mới. 1980-1983: Nông
trường Thanh Niên, Hà Tiên, Kiên Giang. 1984 -1996: Trung tâm chuyển giao kỹ
thuật Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ. 1997-2000: Vụ Chính sách, Bộ
NN&PTNT. 2001-2005: Trung tâm Thông tin NN&PTNT. Từ 2005 đến nay: Viện
Chính sách và Chiến lược PTNNNT.
Công bằng mà nói những thành tích của anh Sơn thời
kỳ còn ở Nông trường Thanh Niên và khi về công tác Viện Lúa Ô Môn không có gì
đáng nhớ ngoại trừ những điều tiếng liên quan đến mối quan hệ giữa anh và những
người bạn đồng môn, đồng nghiệp của mình. Tiếng tăm của anh Sơn thực sự chỉ
“nổi như cồn” khi anh được Bộ trưởng Cao Đức Phát bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện
Kinh tế (nay là Viện Chính sách & Chiến lược phát triển nông nghiệp nông
thôn) với những mẩu chuyện đăng trên các mặt báo tự PR (đánh bóng) tên tuổi
mình (ví dụ “Tiến sỹ Đặng Kim Sơn: Người cầm đèn chạy trước ô tô”, “Không đủ
tiêu chuẩn thì rời vị trí”, “Đặng Kim Sơn: Kệ nhanh, kệ chậm! miễn hiệu quả!”,
v.v.).
Từ những ngày đầu được điều về làm Viện trưởng Viện
Kinh tế (nay là IPSARD) anh Sơn đã hăng hái bắt tay vào “Đổi mới” Viện với hành
động mạnh tay đầu tiên là hạ bệ một loạt các trưởng và phó bộ môn cũ của Viện.
Một số lãnh đạo cũ không thể hoặc không tiện hạ bệ ngay (vì họ đáp ứng đủ mọi
tiêu chuẩn đặt ra về học hàm, học vị lẫn ngoại ngữ) thì bị vô hiệu hóa bằng cách
giao cho những việc “vặt vãnh”!. Việc vô hiệu hóa một số lãnh đạo và hạ bệ các
trưởng bộ phận cũ không mấy khó khăn do trước đó Viện đã có kinh nghiệm đau đớn
về việc các phe phái “đánh nhau” và mọi người đều hiểu là khi đánh nhau thì
người ở cả hai chiến tuyến cùng rơi vào kết cục “Trạng chết thì Chúa cũng băng
hà”! Ngoài ra, vì biết rằng các trưởng/phó bộ môn và trưởng/phó các phòng chức
năng cũ hầu hết không biết ngoại ngữ, cũng chẳng ai đủ dũng cảm tự nhận mình là
người có thể chủ động kiếm việc về nuôi quân nên anh Sơn đã tập hợp họ lại và
nói đại ý: “Trưởng phòng, bộ môn trước hết phải là đầu tàu, chủ động tìm
được việc, đi đấu phải thắng thầu cả đề tài Nhà nước và quốc tế. Các đồng chí
trưởng bộ môn: Ai ở đây có thể làm được điều đó?". Tất nhiên hầu hết
đều lắc đầu. Thế là việc vô hiệu hóa và hạ bệ một loạt lãnh đạo cũ của Viện
diễn ra suôn sẻ.
Song song, với việc hạ bệ một loạt lãnh đạo bộ môn
cũ anh Sơn xây dựng cái gọi là Trung tâm Xuất sắc (Center of Excellency) để thu
hút nhân tài, tạo lập Viện chính sách như là đơn vị “think tank” về chính sách,
chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn. Kết quả của một trung tâm xuất
sắc hay một Viện chiến lược tham mưu cho Bộ như thế nào thì đến nay chắc mọi
người đều rõ. Xin được điểm qua một vài nét chính:
Kết quả đầu tiên phải kể đến là sự phá sản của ý
tưởng tập hợp toàn những người “cực giỏi” là những thủ khoa, tiến sỹ và thạc sỹ
tốt nghiệp các trường nổi tiếng trên thế giới vào cái gọi là Trung tâm xuất
sắc. Công bằng mà nói, ban đầu anh Sơn cũng tập hợp được một số cán bộ trẻ được
đào tạo bài bản ở các nước tư bản như Mỹ, Úc, Pháp, Canada, Nhật, Hà Lan, v.v.
Rất nhiều người trong số này đi theo anh vì bị anh thuyết phục bằng mức lương
cao “ngàn đô/tháng”, điều kiện làm việc tốt, v.v. Bên cạnh đó, cũng không ít
người đi theo anh vì họ đã xem anh là thần tượng của mình. Phải nói rằng anh
Sơn rất giỏi trong khoa nói, nhưng đừng nghe anh ấy nói, hãy xem anh ấy làm.
Một trong số những việc làm đáng ngưỡng mộ nhất của
anh Sơn là đã không thương tiếc “chém cả đệ tử ruột” của mình – người được đánh
giá là có năng lực và đã theo anh Sơn từ thuở hàn vi để rồi cán bộ này phải
chuyển sang một Viện nghiên cứu khác. Ngoại trừ phần đông các tiến sỹ, thạc sỹ
của trung tâm đến với anh Sơn vì bị thuyết phục bởi mức tiền lương hấp dẫn nên
khi hết tiền dự án cũng đã “say good bye forever”, còn lại một số khác mặc dù
đến với anh không hẳn vì tiền mà vì ngưỡng mộ anh nên sẵn sàng ở lại ngay cả
khi không có “lương ngàn đô”, nhưng do “không hợp” với anh Sơn kể cả về quan
điểm khoa học hay cung cách quản lý, cũng được anh “thu xếp” phải ra đi. Ở đây
cần nói thêm rằng những người theo anh vì đã từng thần tượng anh đã mắc sai lầm
khi ảo tưởng rằng những góp ý mang tính xây dựng của mình sẽ được anh trân
trọng đón nhận, nhưng thực tế không phải vậy. Bất cứ ai có chủ kiến đều khó có
thể đồng hành cùng anh Sơn, ngược lại, để có thể đồng hành cùng anh phải biết
“gọi dạ, bảo vâng”.
Anh Sơn vẫn hay nói “người ta đến vì đồng lương còn
ra đi là vì quan hệ”, ngẫm lại thấy nó đúng làm sao!!! Sự ra đi của những người
này dẫn đến tình trạng hiện nay Viện thiếu vắng người đủ tầm kế vị và đó là “lý
do chính đáng” để anh Sơn phải chạy lên Bộ làm đơn xin kéo dài thời gian công
tác, hoãn nghỉ hưu thêm 01 năm để củng cố Viện mặc dù trước đó anh tung tin giả
bộ rằng mình muốn nghỉ hưu sớm. Dư luận mất lòng tin và cho rằng gần 10 năm làm
Viện trưởng còn chẳng củng cố được, liệu 1 năm kéo dài có là đủ, hay chỉ là
thời gian để anh chuẩn bị cho chính sách “hậu Đặng Kim Sơn”?
Còn nhớ, ngày đầu mới về Viện anh Sơn đã có những
phát biểu hùng hồn làm nhiều người ngưỡng mộ: “Hồi mới về, nhìn tên các đề
tài nghiên cứu tôi đã cảm thấy đa số đều có xu hướng làm để kiếm tiền”; “Chúng
ta ăn cơm dân, mặc áo dân, muốn cho tất cả các đề tài này sống được thì tự nó
phải có chất lượng”; “Phải thành lập hội đồng tư vấn độc lập để tổ chức nghiệm
thu đề tài”; “Người được mời tư vấn trong Hội đồng này phải giỏi hơn hẳn Viện
trưởng và những người làm đề tài về lĩnh vực chuyên ngành"(1); v.v.
Thực tế thì hội đồng tư vấn chỉ tồn tại được một thời gian ngắn vì nếu không
thì “gậy ông lại đập lưng ông”!.
Các đề tài mà anh Sơn giao cho nhóm “con đẻ” của
mình làm thực sự chỉ mang tính chất giải ngân, thậm chí còn có hiện tượng “một
gà ba cỗ”, điều mà trước đó chưa từng xảy ra ở Viện Kinh tế cũ. Nhiều đề tài,
dự án tiêu tốn hàng tỷ đồng nhưng không có sản phẩm, ví dụ dự án Đổi mới
tổ chức ngành cà phê Việt Nam” thuộc “Chương trình cà phê bền vững Việt Nam”
do IDH tài trợ với tổng kinh phí 4,23 tỷ đồng nhưng sản phẩm khoa học không có,
chủ yếu là các hoạt động đối thoại và vận động chính sách và thể chế, trong đó
khoản chi lương cho 3 cán bộ phụ trách dự án chiếm 49,3% tổng kinh phí đã giải
ngân tính đến thời điểm 14/5/2013.
Cần nói thêm rằng trong quá trình tổ chức lại Viện,
anh Sơn đã dồn tất cả các cán bộ cũ vào bốn bộ môn sau đó lại dồn lại còn hai
bộ môn gồm: i) Thể chế nông thôn, và ii) Chiến lược, Chính sách và lập nên
Trung tâm Tư vấn chính sách (CAP), Trung tâm Tư vấn chính sách miền Nam (SCAP),
trung tâm Thông tin (AGROINFO), và Trung tâm Phát triển nông thôn (RUDEC). Cán
bộ của hai bộ môn hầu như chỉ tự sống ngắc ngoải bằng các đề tài đấu thầu trong
nước, còn các đề tài quốc tế hầu hết được dồn cho CAP, SCAP, AGROINFO hoặc
outsource ra ngoài.
Mặc dù trong vòng 6 năm kể từ 2006 đến 2012 số tiền
dành cho nghiên cứu đến từ các dự án quốc tế là rất lớn, trung bình mỗi năm lên
tới 40 tỷ đồng nhưng kết quả nghiên cứu và xây dựng Viện đến nay hầu như không
có gì đáng kể. Tự nhận là “think tank” của Bộ NN&PTNT nhưng tới nay Viện chưa
hề đưa ra được chiến lược dài hơi nào cho ngành và cũng chưa đề xuất được những
chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn nào cho ra hồn! Là viện Chính sách,
Chiến lược nhưng các hoạt động nghiên cứu của Viện hầu hết chỉ là “nghe nhạc
hiệu đoán chương trình”. Lãnh đạo viện thì luôn phải nhìn mặt và dỏng tai nghe
ý kiến của lãnh đạo cấp trên rồi cùng đồng thanh theo chứ không có và nếu có
cũng không dám đưa ra chủ kiến của một cơ quan nghiên cứu độc lập. Thậm chí,
một vài người có đủ dũng cảm để nói lên ý kiến độc lập của mình còn bị lãnh đạo
viện “nhắc nhở” vì sợ động chạm.
Cầm đầu ngọn cờ đổi mới, tự nguyện thực hiện cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115, nhưng kết quả là sau 2 hay 3
lần xây dựng tầm nhìn của Viện (visioning) với cả trăm nghìn đô la thuê tư vấn
từ Úc, Pháp và Đan Mạch làm, cuối cùng cũng bỏ vào tủ khóa chặt. Mới đây, Viện
lại có mặt trở lại trong danh sách cơ cấu tổ chức của Bộ NN và PTNT, chẳng khác
nào một Cục, Vụ? Trong nhiều diễn đàn, giải thích về sự thất bại này người “cầm
cờ” đổ tại cơ chế bó buộc, nhất là cơ chế quản lý tài chính và khoa học! Nhưng
dư luận lại đặt câu hỏi “Chẳng lẽ các chuyên gia hàng đầu về chính sách gồm cả
tây và ta tự nghiên cứu cho mình mà lại không hiểu và không lường trước khó
khăn đó, phải để đến lúc làm đụng vào cơ chế mới biết? Và vì sao có nhiều phiên
bản về “tầm nhìn” đến thế mà vẫn không rút được kinh nghiệm?” Cũng vì sự khó
hiểu này mà dư luận cho rằng có lẽ hoặc là do sự kém cỏi của mấy ông tây hoặc
là tại cái “chiến lược giải ngân” nó thế!
Cũng là đi đầu, ít có Viện chính sách nào có phổ
nghiên cứu rộng và bao quát như Viện chính sách và chiến lược PTNNNT. Tôi được
biết, từ cái nhỏ đến cái to Viện đều nghiên cứu cả. Nhỏ thì là đi đào tạo nông
dân Thái Bình quê tôi trở thành Osin ở thành thị những mong đề xuất với Nhà
nước chính sách chuyển đổi nghề ở nông thôn. Lớn hơn một tí là nghiên cứu phát
triển các ngành hàng nông sản. Lớn hơn nữa là một loạt các Chiến lược phát
triển Khoa học công nghệ nông nghiệp, đặc biệt là Viện đã từng xây dựng Chiến
lược phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam, từng giúp các bạn Lào xây dựng
“Tam nông”. Mỗi công trình này đều tiêu tốn cả bạc tỷ của Nhà nước nhưng rồi
kết quả đến đâu thì ai có thể trả lời được? Tôi hỏi những người bạn ở các Viện
kỹ thuật nông nghiệp về Chiến lược KHCN của ngành nông nghiệp, và các chuyên
gia lão thành về ngành nông nghiệp đều phán chung một câu trả lời “No comment –
miễn bàn”. Cá nhân tôi thì tự hỏi phải chăng một Viện nghiên cứu chính sách đầu
ngành cần phải tham mưu cho Bộ một chiến lược về phát triển ngành nghề nông
thôn, lớn hơn là về chiến lược công nghiệp nông thôn chứ ai lại đi làm công
việc của một trường nghề đào tạo Osin để rồi Osin cũng chẳng ra hồn Osin…
Tôi quê miền bắc, nhưng công tác lại gắn bó nhiều
với miền Nam, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, một vùng sản xuất nông
nghiệp hàng hóa lớn nhất của nước ta. Ở đây, câu chuyện “được mùa mất giá” luôn
là bài toán khó với các cấp ngành từ Trung ương đến địa phương. Câu chuyện,
doanh nghiệp, thương lái và cả nông dân “lật kèo” xảy ra như cơm bữa. Mà nguyên
nhân là các bên đều thiếu thông tin, thiếu cách tổ chức sản xuất và thương mại
các sản phẩm.
Mấy năm trước, được biết Viện của anh Sơn có hẳn một
dự án “Phát triển hệ thống thông tin thị trường nông sản” do Canada tài trợ
kinh phí đến cả mấy triệu đô la(2). Dự án nhằm mục tiêu nâng cao năng lực cho
người sản xuất rau quả và các bên liên quan ở 9 tỉnh/thành phía Nam, nơi sản
xuất hàng hóa phát triển để tiếp cận, thu thập, phân tích và sử dụng thông tin
nhằm ứng phó tốt hơn với các tín hiệu của thị trường, qua đó tăng hiệu quả sản
xuất và lợi ích kinh tế. Vậy mà gần đây, khi báo chí kêu ca về tình trạng “được
mùa mất giá” tôi có dịp đi xuống miền Tây và hỏi về hệ thống thông tin này thì
chẳng ai biết hệ thống đó ở đâu? Bây giờ cái gì còn, cái gì mất ai có thể biết
được? Dư luận cho rằng chắc nó đi theo dự án rồi. Nhưng có người lại nói có đâu
mà mất?
Chưa hết, dự án do Chính phủ Tây Ban Nha tài trợ với
ngân sách tổng kinh phí 2,6 triệu Euro(3) hỗ trợ phát triển được bao nhiêu
doanh nghiệp nhỏ và vừa, tôi không rõ, chỉ có Bộ trưởng và bản thân Viện mới
biết. Nhưng ai cũng biết rằng có thời Viện đã từng lập cả “Công ty mẹ - Công ty
con” để đi buôn rau sạch. Nghe đã thấy buồn cười và tất nhiên là mô hình này
làm sao có thể phát triển được bởi các chuỗi giá trị nông sản chất lượng mà các
doanh nghiệp tư nhân bên ngoài và nông dân đang làm không cần mô hình “mẹ -
con” như các tập đoàn nhà nước vẫn hay làm. Cuối cùng, Viện cũng đã “thanh lý”
các công ty vô tích sự này, tất nhiên là sau khi đã tiêu tốn không ít tiền của
vào đây. Tài sản của dự án này vẫn còn một chiếc ô tô để chở rau, mua vội vàng
trước khi dự án kết thúc, hiện vẫn để ở sân cơ quan chưa biết cho ai vì có quá
nhiều doanh nghiệp nên không đủ chia hay vì chẳng có doanh nghiệp nào, cũng có
thể là vì cơ chế quản lý như anh Sơn vẫn nói, cho nên xe thì vẫn để không mặc
cho sương gió dãi dầu hoen gỉ? Tôi tự hỏi chẳng lẽ các nhà làm chiến lược lại
không hiểu về tính phức tạp của thể chế mô hình công ty mẹ, công ty con? Đem ra
bàn thì dư luận cho rằng cũng lại tại cái “bệnh giải ngân mà thôi”.
Có nhiều tiền để nghiên cứu là cái tài của nhà quản
lý. Nhưng xin được nhiều tiền rồi mà không biết cách giải ngân thì cũng mệt.
Tôi được biết cách đây vài năm, nhóm nghiên cứu của anh Sơn đã phải “xuất toán”
trên 4,5 tỷ đồng trong một dự án do Danida tài trợ vì chi sai nguyên tắc. Và đó
mới chỉ là con số kiểm toán của 1 năm (năm 2008) nhưng phải “đền” đến trên 4,5
tỷ thì ai đã làm quản lý đều phải sợ. Khó có thể nói chắc rằng trong cả dự án
với vốn cấp lên đến 2,75 triệu đô la thực hiện trong 5 năm 2007-2012 sẽ không
còn những sai sót kiểu đó? Ấy vậy, mà tôi được biết anh Sơn và nhóm nghiên cứu
đã “bỏ tiền túi” và tự “thu hồi” để trả số tiền này. Quả là có trách nhiệm!
Nhưng dư luận lại băn khoăn là tại sao cả một Viện sai, lại phải để một cá nhân
và một nhóm người phải “sửa sai”? Tôi còn nhớ hồi đó, ngoài Viện chính sách
cũng có 1 - 2 Viện khác của Bộ NN và PTNT cũng có “sai sót” với các dự án của
Danida tài trợ với số tiền phải xuất toán nhỏ hơn, nhưng tôi không nghĩ điều
này lại xảy ra đối với Viện và cá nhân anh Sơn, một cơ quan tham mưu về cơ chế
chính sách và đầy kinh nghiệm trong giải ngân các dự án quốc tế. Có người am
hiểu sự tình, lắc đầu châm biếm “đền chi, mỡ nó rán nó cả thôi!”
Tôi thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính từ năm 2006-2013
chỉ riêng 16 dự án hợp tác quốc tế (phần lớn ODA) của IPSARD do anh Sơn chỉ đạo
thực hiện tổng số vốn phê duyệt 11.517.687 đô la, tổng số tiền bằng đồng lấy
tròn 203 tỷ đồng. Anh Sơn có hẳn trang trại lớn ở Lương Sơn, lấy tên “Đặng gia
trang”. Trang trại này rộng khoảng 3 ha, có cả bể bơi, điện mặt trời và người
trông coi trang trại được thuê từ tiền lấy từ dự án Tây Ban Nha.
Cách đây vài tháng, tôi và anh Sơn cùng tham gia
nhóm chuyên gia tư vấn cho dự án của Hà Lan về Mekong Delta. Chúng tôi trò
chuyện về quê hương, về chuyên môn. Với trách nhiệm của nhà khoa học, nhà báo
công dân và vì sự phát triển của ngành, tôi không thể viết khác những điều mà
mình biết!
Trên đây là một vài nét sơ lược về Tiến sỹ Đặng Kim
Sơn để mọi người có thêm thông tin hiểu rõ hơn về một “nhà nông học xuất sắc
của Việt Nam”, “Người cầm đèn chạy trước ô tô”, “Người nghĩ mở, nói thẳng”,
“một tấm lòng chan chứa tình cảm, luôn trăn trở với các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn – lĩnh vực cả đời ông gắn bó!!!”.
T.V.T.
(1)
http://vietbao.vn/Phong-su/Khong-du-tieu-chuan-thi-roi-vi-tri/20494387/262/
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 02:38
No comments:
Post a Comment