GS Lê Xuân Khoa
Posted by basamnews on 08/02/2013
Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy, ông chạy về trung
ương, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi
phát biểu: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ
nữ và lại là người từng nuôi cán bộ cộng sản và là mẹ một Chính ủy trung đoàn
Quân đội Nhân dân đang tại chức.” Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói ông Trường Chinh
về chuyện hệ trọng và cấp bách này!
Thế nhưng không có gì động đậy theo hướng đó cả! Bởi vì
người ta mượn cớ là đã quá chậm. Các phóng viên hạ phóng tham gia cải cách đã
viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi. Lập luận của “những phái viên
đặc biệt của Mao Chủ tịch” là: “Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối, nhằm
chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa
chủ là rất ngoan cố, xảo quyệt, tàn bạo, chúng không từ một thủ đoạn nào để
chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt, nhận rõ kẻ thù của
mình, dù chúng dở thủ đoạn nào.”
Tôi hỏi ông Hoàng Quốc Việt vậy thì ông nghĩ sao về câu
chuyện này? Lúc ấy là năm 1987, đã có “đổi mới”, “nói thẳng và nói thật”. Ông
nói: “Đến bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ!”15
…..
Bài học về những sai lầm trong quá khứ không những chỉ
giúp tránh lặp lại những sai lầm tương tự trong tương lai mà còn giúp cho việc
xác định đúng hướng đi và thiết lập được những chính sách có hiệu lực trong
công cuộc phát triển đất nước và bảo vệ tinh thần độc lập của dân tộc, nhất là
trước nỗi đe dọa thường trực của đầu óc bá quyền Trung Quốc.
*
*
Đây là nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên
nhân trực tiếp gây nên cuộc di cư ào ạt vào Nam của ngót một triệu dân miền
Bắc. Mặc dù theo hiệp định Genève 1954, việc chia đôi đất nước chỉ là tạm thời
và một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng Bảy 1956 để cho nhân dân
hai miền bỏ phiếu về vấn đề thống nhất đất nước,1 gần một triệu
người đã quyết định từ bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên, công việc làm ăn
và bà con bạn bè để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không có gì đảm bảo cho
tương lai, chỉ vì muốn có một đời sống tự do hơn. Số người ra đi đáng lẽ đã
không nhiều nếu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) cứ tập trung nỗ lực
vào công cuộc kháng chiến và khoan thi hành chính sách cải cách ruộng đất cùng
phong trào chỉnh huấn nhằm thanh lọc hàng ngũ cán bộ và trí thức. Những biện
pháp này bắt đầu được áp dụng lẻ tẻ từ sau Cách Mạng tháng Tám 1945 và, sau
nhiều lần điều chỉnh bổ sung, được chính thức thi hành từng bước từ 1953 cho
đến 1955 mới trở thành toàn diện và triệt để. Vì có nhiều sai lầm tai hại,
chiến dịch cải cách ruộng đất phải chấm dứt vào tháng Bảy 1956.
Lúc đầu, chính sách cải cách mộng đất được
giới hạn tại những vùng do Việt Minh kiểm soát với mục đích động viên một lực
lượng chiến đấu và sản xuất quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Những biện pháp “giảm tô, giảm tức”2 và phân phối một số ruộng đất
cho giới bần cố nông thi hành trong những năm đầu là những bước chuẩn bị cho cuộc
cách mạng “long trời lở đất” ở nông thôn sau khi chiến tranh chấm dứt. Để có
thể huy động sự ủng hộ của mọi thành phần nhân dân vào các nỗ lực kháng chiến,
chính sách cải cách ruộng đất được thi hành dẫn dần từng bước một. Điều đó cũng
phù hợp với đường lối của đảng cộns sản trong giai đoạn chuyển tiếp là thực
hiện cuộc cách mạng dân chủ tư sản trước khi tiến đến chuyên chính vô sản. Lập
trường đấu tranh giai cấp trong giai đoạn này là: “Dựa vững chắc vào bần nông
và cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trang nông và liên minh với phú nông; phá bỏ
sự bóc lột của phong kiến từng bước một trong khi phân biệt rõ các thành phần
nông thôn khác nhau; gia tăng sản xuất; đẩy mạnh kháng chiến tiến lên.”3
Từ 1949, nhà nước đã xác định chính sách bằng nhiều sắc lệnh và thông tư nhưng
đến tháng Mười Hai 1953 thì quốc hội mới hoàn chỉnh sắc lệnh qui định toàn bộ
chính sách và thể thức thi hành cải cách ruộng đất.4
Mặc dù mới chỉ là những bước thí nghiệm và
chuẩn bị, khi nhà nước tiến đến việc chỉnh huấn cán bộ và trí thức, phân định
thành phần nông thôn, vận động quần chúng đấu tranh chống địa chủ và thiết lập
toà án nhân dân, thì nỗi kinh hoàng đã lan tràn trong mọi giới, ngoại trừ thành
phần bần cố nông và giới lãnh đạo đảng cộng sản. Do đó, chỉ trong thời hạn 300
ngày ấn định bởi hiệp định Genève5 đã có ngót 900 ngàn người rời bỏ
miền Bắc vào miền Nam trong khi chỉ có trên 4,000 người ở trong Nam chọn trở về
ngoài Bắc sinh sống, không kể khoảng 140,000 bộ đội Việt Minh phải rút ra Bắc
theo quyết định của hội nghị Genève.
Trong phạm vi lịch sử tị nạn 1954, chương
sách này sẽ chỉ đề cập đến những chính sách và biện pháp cải cách ruộng đất
trong khoảng từ tháng Giêng 1948 đến tháng Năm 1955, tức là từ lúc chính sách
bắt đầu được hoạch định qui mô cho đến những ngày cuối cùng của thời hạn người
dân được phép di cư giữa hai miền Nam-Bắc. Tuy nhiên, để phù hợp với mục đích
của cuốn sách là rút ra những bài học của quá khứ, chương này cũng sẽ trình bày
một cái nhìn bao quát về cao điểm của chiến dịch “phóng tay phát động quần chúng”
trong những năm 1955-1956, tiêu diệt giai cấp địa chủ một cách máy móc và tàn
khốc với những hậu quả nguy hại cho chính chế độ khiến cho nhà nước phải ngưng
thi hành chính sách, công khai nhìn nhận lỗi lầm và tìm cách sửa sai.
Cải cách ruộng đất vốn là một chính sách
trọng yếu của chủ nghĩa cộng sản. Sau cuộc cách mạng tháng Mười 1917, Lenin đã
cho thực hiện ở Nga một cuộc cải cách ruộng đất sâu rộng và triệt để, làm gương
mẫu cho tất cả các nước cộng sản khác ở Đông Âu và Á châu. Theo chính sách này,
trước hết nông dân nghèo được cấp phát ruộng đất đồng đều để không còn bị lệ
thuộc vào địa chủ nào khác hơn là chính mình, sau đó sẽ được tổ chức và hướng
dẫn vào sinh hoạt canh tác tập thể để cho cuộc sống dưới chế độ bao cấp được
đảm bảo hơn về mọi mặt. Như Lenin đã viết:
Người công nhân vô sản nói với nông dân:
“chúng tôi sẽ giúp cho các bạn đạt tới ‘chủ nghĩa tư bản lý tưởng’, vì tình
trạng bình đẳng về tư hữu ruộng đất chính là chủ nghĩa tư bản được lý tưởng hoá
trên quan điểm của người hữu sản nhỏ. Đồng thời, chúng tôi cũng sẽ chứng tỏ cho
các bạn thấy sự thiếu sót của hệ thống này và sự cần thiết phải tiến tới việc
canh tác đất đai tập thể.”6
Theo tác giả Trần Phương, nguyên Phó Thủ
tướng Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), thì ngay từ khi thành lập
năm 1930, đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng
là “…một mặt tranh đấu phá hủy tàn tích của chế độ phong kiến, những hình thức
bóc lột của thời tiền tư bản và hoàn tất cuộc cách mạng triệt để về ruộng đất;
mặt khác, tranh đấu phá hủy nền thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp và giành
lại độc lập hoàn toàn cho các nước Đông Dương. Hai nhiệm vụ này quan hệ chặt
chẽ với nhau, vì việc lật đổ giai cấp phong kiến và hoàn thành cuộc cách mạng
ruộng đất đòi hỏi sự hủy diệt chủ nghĩa đế quốc; ngược lại, không có việc phá
bỏ hệ thống phong kiến thì việc hủy diệt chủ nghĩa đế quốc cũng không thể thành
tựu được.”7
Trong giai đoạn đầu, đảng CSĐD chủ trương
liên kết thành phần công nông với mọi thành phần xã hội khác để thực hiện cuộc
cách mạng dân chủ tư sản chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Tháng Năm
năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 của ủy Ban Trung Ương Đảng họp tại Pắc Bó, Cao
Bằng, chính thức hoá việc thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt
Minh, với ý nghĩa của một mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc đồng thời
chuẩn bị thực hiện cuộc cách mạng dân chủ tư sản này. Sau khi Việt Minh giành
được chính quyền bằng Cách Mạng tháng Tám 1945, chính quyền địa phương ở một số
nơi đã tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và “Việt gian” để phân chia cho các
tá điền, đồng thời cắt giảm địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Để khuyến
khích nông dân tham gia tranh đấu, Bộ Nội vụ VNDCCH đã ra một thông tư trong
tháng Mười một 1945 cắt giảm địa tô xuống còn 25 phần trăm.
Tháng Giêng năm 1948, Hội nghị ủy Ban Trung
Ương Đảng đưa ra những biện pháp cụ thể để thi hành chính sách ruộng đất, gồm
có:
- thi hành toàn diện biện pháp giảm tô 25%
mà nhiều nơi còn trễ nải;
- bãi bỏ mọi khoản tiền thúê phải trả thêm;
- bãi bỏ hệ thống trung gian trong việc
thuê ruộng đất;
- thực hiện công bằng việc phân chia công
điền công thổ;
- trao cho nông dân những ruộng đất và tài
sản của thực dân Pháp, và tổ chức lại những đất đai của Pháp mà Chính phủ đang
tạm thời quản lý;
- tạm thời trao lại cho nông dân hoặc cho
quân đội khai thác những đất đai tài sản của những người Việt Nam đã đi sang
hàng ngũ địch;
- đặt dưới quyền sử dụng của các uỷ ban
Kháng chiến tỉnh những đất đai tài sản của những địa chủ đã vắng mặt một thời
gian hoặc đang cư ngụ trong vùng địch chiếm đóng, để cho những tài sản này được
dùng vào việc tiếp tế cho nạn nhân chiến tranh hay cấp khí giới cho việc phòng
thủ làng xã, v.v. Chính phủ bảo đảm hoàn trả tiền thuê mướn cho điền chủ khi họ
trở về nếu họ được công nhận là xứng đáng được bồi hoàn;
- thực hiện cuộc điều tra các món nợ của
nông dân để ấn định lại lãi suất.8
Một “Hội đồng Giảm tô” được thành lập do
sắc lệnh số 78/SL ngày 14 tháng Bảy 1949, tiếp theo là thông tư liên bộ số
152/NVI ngày 23.07.49 miễn giảm tô cho các chiến sĩ và nhân viên chính phủ làm
chủ đất miễn là diện tích ruộng cho thuê không quá ba mẫu. Ngày 21.08.49 lại có
thông tư liên bộ số 33/NVL hướng dẫn việc phân chia đất của “Pháp kiều và Việt
gian” cho nông dân không có ruộng, ưu tiên dành cho thương binh và gia đình tử
sĩ, nhưng nhấn mạnh rằng việc phân chia này chỉ có tính chất tạm thời; đến ngày
21.12.49 thì có thông tư bổ túc bỏ hai chữ “tạm thời” trong thông tư trước. Sau
đó, vì nhận thấy có sự phức tạp trong việc chia những ruộng đất bỏ trống, nhà
nước ra pháp lệnh số 25/FL ngày 19 tháng Hai 1950 về quản lý ruộng đất, ấn định
ba loại đất bỏ trống: đất của “Việt gian” hợp tác với Pháp, đất của những người
còn đang sống trong vùng địch nhưng không hợp tác với Pháp, và đất của những
người không biết đang ở đâu. Đối với loại thứ nhất, đất bị tịch thu làm của
công; đốì với loại thứ hai, đất bị trưng dụng toàn bộ hay một phần và sau này
có thể trả lại cho chủ đất sau khi khấu trừ các chi phí hành chánh; đối với
loại thứ ba, đất chỉ bị tạm giữ và sẽ được trả lại cho chủ đất sau khi khấu trừ
chi phí.
Ngày 22 tháng Năm, 1950, chính phủ ban hành
pháp lệnh số 89/FL xoá bỏ tất cả những món nợ mà nông dân vay trước 1945, những
món nợ sau 1945 mà tổng cộng số tiền lời đã trả cao hơn 100% số vốn vay, những
món nợ mà người vay là những người đã bỏ mình vì kháng chiến, và những món nợ
mà chủ nợ là những kẻ có tội với kháng chiến. Cũng trong ngày 22.05.1950 lại có
pháp lệnh số 9Q/FL ấn định việc quốc hữu hóa đất đai và chia cho nông dân nghèo
với những điều khoản đáng chú ý như:
Điều 2 – Tất cả những đồng ruộng không được
chủ đất canh tác trong thời gian 5 năm sau ngày ban hành pháp lệnh này đều
thuộc quyền sở hữu của nhà nước.
Điều 3 – Tất cả những ruộng đất bỏ hoang
ấy, sau khi bị tịch thu, sẽ được tạm thời cấp phát cho nông dân nghèo.
Điều 4 qui định việc tạm cấp đất cho nông
dân nghèo trong 10 năm, miễn thuế trong 3 năm, và điều 5 qui định rằng đối với
những đất bỏ trông chưa tới 5 năm, chủ đất có thể bị bắt buộc phải canh tác
ngay lập tức, hoặc phải để cho quân đội nhân dân canh tác, hoặc phải cho người
khác mượn để canh tác. Nếu chủ đất không chịu tự nguyện cho mượn đất, uỷ Ban
Kháng Chiến/Hành Chánh địa phương sẽ can thiệp và ấn định các điều kiện của hợp
đồng cho thuê đất. Điều 6 cho biết thêm là trong trường hợp UBKC/HC phải can
thiệp, thời gian cho thuê đất sẽ được ấn định là từ ba đến mười năm, tuỳ theo
khả năng khai thác và sản xuất mau hay chậm. Sau cùng, điều 8 xác định hai
trường hợp không áp dụng pháp lệnh này: (1) những đồn điền trồng cây kỹ nghệ có
thâu hoạch theo mùa hàng năm; (2) những đất bỏ trông vì chủ nhân tham gia kháng
chiến nên không trồng trọt được.9
Trong những năm đầu, vì tình hình chiến sự
và những vùng đất do Việt Minh kiểm soát còn giới hạn, công cuộc cải cách ruộng
đất chỉ được thi hành lẻ tẻ dưới hình thức giảm tô giảm tức và phân chia những
thửa ruộng đã tịch thu cho nông dân nghèo để họ hết lòng phục vụ kháng chiến,
nhất là xung vào những đoàn dân công đi làm đường và tải súng đạn cho quân đội.
Nhưng kể từ 1950, sau khi VNDCCH được Trung Quốc và Liên Xô chính thức bang
giao và thúc giục công khai hoá đảng cộng sản,10 nhiều văn bản pháp
lý về cải cách ruộng đất đã được ban hành và thực hiện qui mô hơn, sau đó được
đúc kết trong sắc lệnh số 87/SL ngày 5 tháng Năm, 1952. Sắc lệnh này nói chung
vẫn dành cho giai đoạn chuyển tiếp hơn là thiết lập một qui chế mới và lâu dài
về vấn đề sở hữu đất. Mục đích của sắc lệnh như được ghi trong “lời mở đầu” và
“nguyên tắc tổng quát” là để cho việc phân chia ruộng đất được thi hành một
cách thích hợp hơn trong thời gian kháng chiến, tăng gia sản xuất, tăng cường
sự kết hợp lực lượng nông dân lao động. Một điểm quan trọng khác trong sắc lệnh
này là việc bãi bỏ công điền công thổ đã có từ lâu đời — kể cả đất dùng trong
việc thờ cúng các thần linh — để chia cho nông dân trong làng hay huyện. Những
đất bán công như đất do các vua chúa đời trước cấp cho các vị công thần, đất do
tư nhân hiến tặng cho chùa chiền hay nhà thờ và những đất bỏ hoang cũng đều nằm
trong loại này.
Việc chia đất được giới hạn tối đa cho gia
đình bần cố nông là 0.5 ha mỗi đầu người, được coi là vừa đủ cho họ tự nuôi
sống và đóng thuế nông nghiệp. Vì không có đủ đất để chia cho tất cả mọi nông
dân nghèo nên ưu tiên sẽ dành cho cựu chiến sĩ, gia đình liệt sĩ, đoàn viên các
lực lượng du kích, v.v… Một hệ thống luân phiên sử dụng cũng được thiết lập
trong trường hợp phân chia đất công: người thụ hưởng được sử dụng đất từ 3 đến
5 năm, sau đó phải trả lại cho làng để giao cho người kế tiếp trên danh sách.
Một “ủy ban nông nghiệp” có trách nhiệm phân phát ruộng đất công được thành lập
ở mỗi làng gồm có chủ tịch hay đại diện UBKC/HC, đại diện mặt trận Liên Việt,
đại diện ủy ban nông nghiệp và một hay hai đại diện nông dân.
Sắc lệnh 87/SL được bổ sung bằng sắc lệnh
số 149/SL ngày 12.04.1953, trước hết giảm địa tô thêm 25 phần trăm hay hơn nữa
“để cho tiền thuê đất không thể vượt quá trị giá 1/3 số hoa màu thu hoạch
được.” Sắc lệnh 149/SL xác nhận pháp lệnh số 89/FL năm 1950 với một số điều bổ
sung, xoá bỏ hết các món nợ vay trước Cách mạng tháng Tám 1945 và cho tạm ngưng
trả những món nợ sau Cách mạng nếu con nợ thuộc thành phần được ưu đãi (cựu
chiến sĩ, gia đình liệt sĩ…) và chủ nợ còn đang sống trong vùng “địch” kiểm
soát. Tất cả tài sản ruộng đất của “đế quốc” Pháp, “Việt gian” và “địa chủ ác ôn”
đều bị tịch thu để cấp phát cho những nông dân vô sản chưa được chia phần trước
đây, ưu tiên vẫn được dành cho thành phần ưu đãi của chế độ. Sắc lệnh số 149/SL
cũng xác nhận và bổ sung pháp lệnh số 90/FL năm 1950 về ruộng đất bỏ hoang của
những người sống trong vùng quốc gia kiểm soát. Ruộng đất này được tạm thời cấp
phát cho nông dân nghèo canh tác mà không phải trả địa tô, nhưng khi chủ nhân
trở về họ sẽ được ưả lại ruộng đất nếu không bị kết tội phản động. Đất bỏ hoang
khôna được canh tác trong hai năm (thay vì 5 năm) sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà
nước. Để cho việc thi hành chính sách được đồng đều. một “ủy ban Nông nghiệp”
được thành lập ở mọi cấp, từ chính phủ trung ương xuống đến UBKC/HC cấp làng
xã. Ủy ban nông nghiệp trung ương ngoài Thủ tướng làm chủ tịch, còn có Bộ
trưởng Canh nông, Bộ trưởng Nội vụ, một đại diện Mặt trận Liên Việt và hai đại
diện nông dân.
Với chính sách giảm tô, xoá nợ và phân chia
ruộng đất như vậy, nhiều địa chủ đã phải lập công với kháng chiến bằng cách “tự
nguyện” cống hiến một phần lớn tài sản của mình cho chính phủ. Những thành tích
tốt đẹp này đều được tuyên dương trên báo chí và đài phát thanh, chẳng hạn ngày
26 tháng Hai 1951, đài Tiếng Nói Việt Nam đã loan báo: “Ông Nguyễn Duy Diễn,
địa chủ ở Bắc Giang… đã tặng cho chính phủ 700 mẫu ruộng (khoảng 660 acres), 19
con trâu và một số gia súc khác. Hơn nữa, ông còn giảm địa tô xuống dưới mức ấn
định bởi chính phủ. Ông đã tặng nhiều hơn tất cả những địa chủ mà ông quen
biết…”11 Sau này, khi việc qui định thành phần nông thôn đã được
chính thức ấn định và phong trào “tố khổ” địa chủ bắt đầu lan rộng, việc tự
nguyện hiến đất cho chính phủ trở thành một ân huệ chỉ dành cho những địa chủ
có công với cách mạng. Có nhiều trường hợp, nhất là khi có cố vấn Trung quốc
trực tiếp chỉ đạo (như sẽ được nói đến dưới đây), thì ngay cả những địa chủ có
công với cách mạng cũng không còn được phép cống hiến ruộng đất mà sẽ bị tịch
thu toàn bộ tài sản và bị đem ra toà án nhân dân xét xử. Theo quan điểm đấu
tranh giai cấp, địa chủ đương nhiên là thành phần thù địch của nông dân cho nên
mọi hành động tỏ ra yêu nước hay có công với cách mạng của địa chủ đều chỉ là
thủ đoạn xảo trá, che giấu mưu đồ đen tối trong khi chờ đợi cơ hội khôi phục
lại quyền lực. Nhân dân cần phải tỉnh táo và thẳng tay tiêu diệt họ. Việc thiết
lập các “nông hội” ở mỗi làng xã với thành phần đa số là bần cố nông và thiểu
số là trung nông nhằm loại bỏ hoàn toàn thành phần phú nông và địa chủ.
Cũng nên biết thêm là chính sách ruộng đất
luôn luôn đi đôi với một hệ thống thuế nông nghiệp thiết lập năm 1951 nhằm cải
thiện đời sống của giới nông dân nghèo. Thuế này được đánh trên căn bản tổng
gộp lợi tức nông nghiệp, từ 6 đến 10 phần trăm đôi với bần nông, 15 đến 20 phần
trăm đối với trung nông và từ 30 đến 50 phần trăm đối với phú nông. Đây là
chính sách bần cùng hoá trung nông và phú nông nhưng thực tế thì ngay cả bần cố
nông cũng vẫn không đủ ăn, rốt cuộc tất cả đều phải tham gia canh tác tập thể
và hợp tác xã nông nghiệp, đúng với đường lối của Lênin.
Để phân biệt được “bạn” với “thù” trong
việc thi hành chính sách ruộng đất, sắc lệnh số 239/B.TLP ngày 2 tháng Ba 1953
qui định năm thành phần nông thôn, nội dung khá phức tạp và không được rõ ràng,
để cho các UBKC/HC địa phương tùy tiện quyết định. Đại khái, năm thành phần
nông thôn gồm có:
Địa chủ là những người có nhiều ruộng đất nhưng không trực tiếp
canh tác mà chỉ thâu địa tô, thường thường qua người trung gian vì nhiều địa
chủ còn có nghề nghiệp và cơ sở làm ăn ở thành thị.
Phú nông là những người không có nhiều ruộng đất bằng địa chủ, có
tham gia vào việc canh tác nhưng cũng cần mướn tá điền hoặc cho thuê đất lấy
địa tô.
Trung nông là những người chỉ có vừa đủ ruộng đất, gia súc và dụng
cụ canh tác để nuôi sống gia đình mình.
Bần nông là những nông dân có ít ruộng đất, không đủ nuôi sống
gia đình nên phải đi làm thêm hoặc phải thuê đất và trâu cày của địa chủ.
Cố nông là những nông dân vô sản chỉ có thể sinh sống bằng cách
đi làm thuê cho địa chủ hoặc phú nông.
Ngoài ra, còn hai thành phần trung nông và
phú nông đặc biệt khác: (1) những cán bộ, chiến sĩ có công, gia đình tử sĩ, V.
V. trở thành trang nông sau khi được chia đất nhưng vì nhiệm vụ kháng chiến hay
trong hoàn cảnh không thể tự mình canh tác nên phải thuê người làm giống như
phú nông; (2) những nông dân nghèo được chia đất từ những ngày đầu, sau một
thời gian làm ăn, đã trở nên khá giả. Những người này được gọi là “phú nông
mới”, do sức cần lao của chính họ, khác với loại phú nông giàu sẵn. Hai thành
phần đặc biệt này chỉ được dung dưỡng vài năm và cũng bị loại bỏ khi phong trào
Cải cách Ruộng đất được triệt để thi hành trong những năm 1955-1956.
Cuối cùng, sắc lệnh 239/B.TLP còn phân biệt
nhiều thành phần khác trong xã hội như: nghề tự do (bác sĩ, luật sư, kỹ sư, văn
nghệ sĩ…) chủ tàu đánh cá, chủ ruộng muôi, tiểu thương, tiểu công nghệ.
Đáng chú ý là một số qui định sau đây:
- Chiến sĩ cách mạng là những người đang
phục vụ trong quân đội các ngành, các cấp. Con cái của các địa chủ hay phú nông
chỉ được kể là chiến sĩ cách mạng sau khi đã phục vụ trong quân ngũ được ít
nhất là một năm.
- Con cái của địa chủ và phú nông khi còn ở
trong gia đình thì đương nhiên thuộc thành phần xã hội của gia đình mình. Khi
trưởng thành, nếu ra ở riêng, họ sẽ được xếp loại theo nghề nghiệp xã hội của
họ.
- Con cái của địa chủ và phú nông có vợ hay
chồng là công nhân hay nông dân được kể là thuộc giai cấp công nông sau khi đã
làm việc bằng lao động được một năm.
- Con cái của công nhân hay nông dân được
địa chủ hay phú nông nhận nuôi làm con và đã sống trong gia đình cha mẹ nuôi
được hơn một năm (từ 10 tuổi trở lên) được kể là thuộc giai cấp của gia đình
cha mẹ nuôi.
- Trí thức không được coi là một giai cấp
đặc biệt. Việc qui định thành phần xã hội của mỗi người được căn cứ vào gốc gia
đình của người đó. Những người đã tách ra khỏi gia đình để làm công việc khác
được ít nhất là một năm và không nhận sự giúp đỡ nào của gia đình sẽ được qui
định thuộc thành phần xã hội do nghề nghiệp của họ.
Trong phần kết thúc, sắc lệnh nhận định
rằng việc qui định thành phần xã hội là cần thiết nhưng cũng là “một công việc
rất phức tạp, dễ mắc phải sai lầm.” Nhưng để giải quyết tình trạng khó khăn ấy,
những nhà làm chính sách lại đề ra một phương cách thực hiện có thể còn phức
tạp và chủ quan hơn: “Phương cách tốt nhất để tránh khỏi lỗi lầm tai hại là hội
họp quần chúng để trình bày trường hợp cần được cứu xét, tham khảo ý kiến của
họ, và việc qui định thành phần chỉ được tiến hành khi đã nắm vững đầy đủ các
yếu tố” 12
Trước triển vọng lạc quan về tình hình
chiến sự, Quốc hội VNDCCH nhóm họp vào tháng Mười Một và tháng Mười Hai 1953
(lần đầu tiên kể từ tháng Mười Một 1946 và là lần thứ ba kể từ ngày bầu cử 6
tháng Giêng 1946.) Trong số 444 đại biểu quốc hội, trừ 70 người của VNQDĐ và
VNCMĐMH đã bị loại sau những cuộc khủng bố đối lập và một số người khác vì
chiến tranh không thể tham dự, chỉ có 171 đại biểu hiện diện để thảo luận, sửa
đổi sắc lệnh 149/SL và thông qua dự luật mới về cải cách ruộng đất mang số
197/HL. Dự luật này được Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức ban hành ngày 19 tháng
Mười Hai 1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên là “Luật Cải Cách
Ruộng Đất.” Đáng chú ý là ủy Ban Chấp Hành Trung Ương và Đại hội Toàn quốc Đảng
Lao Động cũng họp trong thời gian này. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của
chính sách ruộng đất và việc đảng cộng sản chuẩn bị thi hành chính sách này một
cách thống nhất và sâu rộng trên toàn quốc khi không còn phải lo việc chiến
tranh. Trong khi chờ đợi, đảng quyết định rằng các biện pháp phải được “thi
hành thận trọng từng bước một theo đúng kế hoạch đã chuẩn bị kỹ càng.”
Bernard Fall nhận xét rằng chính sách ruộng
đất của VNDCCH khác với chính sách áp dụng ở Nga Sô và có đặc tính Á châu theo
mô hình Trung quốc và Bắc Triều tiên. Trong khi ở Nga Sô quyền tư hữu đất bị
xoá bỏ vĩnh viễn thì ở bên Á đông, nông dân có quyền làm chủ mảnh đất của mình.
Nhận xét của Fall không đúng hẳn vì quyền tư hữu này ở tất cả các nước cộng sản
chỉ có giá trị trong thời gian chuyển tiếp, cuối cùng vẫn thuộc về nhà nước
quản lý và canh tác tập thể như lời của Lenin về “chủ nghĩa tư bản lý tưởng” đã
dẫn trên đây. Tuy nhiên, Việt Nam (cộng sản) và Trung Quốc khác với Bắc Triều
Tiên ở chỗ, trong thời gian chuyển tiếp, nông dân được chia đất có thể chuyển
nhượng cho người thừa kế, thế chấp, bán lại hoặc tặng cho người khác phần đất
của mình.
Do kinh nghiệm trong những năm trước, luật
cải cách ruộng đất tháng Mười Hai 1953 dự liệu một số biện pháp mới đối với
những đất đai bị tịch thu. Có một số chủ đất vì muốn khỏi bị tịch thu đã đem
bán hoặc sang nhượng đất cho người khác. Để ngăn chặn việc này, luật quyết định
hủy bỏ mọi việc mua bán hay chuyển nhượng sau ngày ban hành sắc lệnh về “Vận
Động Quần Chúng” 12 tháng Tư, 1953. Nhà nước sẽ tịch thu hoặc trưng thu đất nếu
người mua là địa chủ và phú nông, trưng mua đất và trả bằng trái phiếu nếu người
mua là trung nông, họặc những người này phải bán lại đất cho bần cố nông trên
căn bản “thiện chí”.
Việc thi hành luật cải cách ruộng đất “thận
trọng từng bước một” trong giai đoạn chuyển tiếp này còn thấy rõ ở hai trường
hợp: một số ruộng đất có thể được giữ lại cho mục đích tôn giáo hay thờ tự nếu
được xét là cần thiết, nhưng người phụ trách phải tự lo việc cày cấy hay trồng
trọt; những đất đai dùng vào việc thương mại hay kỹ nghệ cũng được tiếp tục sử
dụng để phát triển kinh tế và không bị tịch thu. Đất kỹ nghệ và thương mại bao
gồm những khu đồn điền, đất có mỏ than hay kim loại, các dòng nước và cơ sở
thủy lực, đất ở dọc theo các trục lộ giao thông hoặc gần các đô thị, khu quân
sự, và đất đai dùng vào việc công ích; những khu di tích lịch sử như đền đài
lăng tẩm cũng được kể trong loại này. Tất cả những đất công này đều không được
phân phát cho dân nghèo.
Trên nguyên tắc, quyền sở hữu đất đai của
ngoại kiều bị bãi bỏ nhưng việc tịch thu ruộng đất không áp dụng đối với “những
người ngoại quốc cho đến nay vẫn sống nhờ hoa màu trên đất đai của họ.” Ngoài
ra, ngoại kiều cũng được chia cấp đất “nếu họ không có nghề nghiệp gì khác để
sinh sống.” Những ngoại lệ này rõ ràng được dành cho một số Hoa kiều vì nhà
nước cần phải nhượng bộ Trung Quốc là nguồn viện trợ quân sự quan trọng cho
cuộc chiến tranh chống Pháp.
Phương tiện tối quan trọng trong việc thi
hành cải cách ruộng đất là “toà án nhân dân” được thiết lập từ 1950 sau khi một
Hội nghị Tư pháp Toàn quốc được triệu tập ở Liên Khu III đã san định bộ dân luật
và hình luật của Việt Nam phỏng theo luật của Pháp, nhưng sửa đổi lại hệ thống
và thẩm quyền của tòa án. Ở mỗi cấp xử án đều có một hội thẩm đoàn nhân dân có
quyền lực rất mạnh trong vấn đề xét xử và tuyên án. Vị thẩm phán chuyên nghiệp
chỉ đóng vai trò cố vấn kỹ thuật. Bị can không có quyền chống án vì “tòa án
nhân dân không thể sai lầm.” Điểm khác thường là luật này đặc biệt khuyến khích
những vụ tố cáo và không trừng phạt những trường hợp “lầm lẫn”, do đó đã có
nhiều vụ tố cáo bừa bãi và nhiều người đã là nạn nhân của những vụ vu cáo hay
thổi phồng tội ác do thù oán cá nhân. Điều 373 Hình luật VNDCCH năm 1950 ghi
rằng “mỗi công dân có nhiệm vụ phải báo cáo mọi sự vi phạm mà mình được biết.
Vì vậy, người nào đã tố giác… vì sai lầm và không có chủ ý hãm hại thì sẽ không
có tội… Luật bác bỏ tục lệ cũ trừng phạt người tố cáo cùng một hình phạt mà kẻ
bị tố cáo có thể đã phải chịu.”13
Bộ hình luật 1950 được bổ túc bằng sắc lệnh
số 151/SL ngày 12 tháng Tư 1953, thành lập những “tọà án nhân dân đặc biệt” để
trừng phạt nặng nề mọi hành vi phá hoại công cuộc cải cách ruộng đất. Tội nhân
có thể bị kết án tử hình và khi đó bản án sẽ được thi hành tại chỗ. Hình thức
công lý khác thường này được coi là dân chủ thật sự vì có sự tham gia trực tiếp
của “nhân dân” vào việc xét xử người bị cáo. Như nhật báo Cứu Quốc, cơ
quan chính thức của Đảng cộng sản hồi đó, đã thuật lại lời một nông dân rằng
đây là “một tòa án dân chủ, quảng đại đối với nhân dân và quyết liệt đổì với
bọn địa chủ phản động.”14
Ban lãnh đạo chính sách ruộng đất chủ yếu
gồm có Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng: Trưởng Ban Chỉ Đạo cải Cách Ruộng Đất;
Hoàng Quốc Việt, ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng: Trưởng ban Chỉ đạo thí điểm
cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên; Lê Văn Lương, ủy viên Thường Vụ Trung Ương
Đảng: Trưởng ban Chỉ đạo thí điểm chỉnh đốn tổ chức ở Thanh Hoá, Nghệ An và Hà
Tĩnh. Ngoài ra, còn có Hồ Viết Thắng, ủy viên Trung ương đảng, giữ chức Giám
đốc trực tiếp điều hành chiến dịch.
Trường hợp điển hình của cải cách ruộng đất
được thi hành triệt để ngay trong thời gian làm thí điểm năm 1953 là trường hợp
xử tử bà Nguyễn Thị Năm, chủ đồn điền Đồng Bẩm ở Thái Nguyên, một “bà mẹ chiến
sĩ” rất có công với cách mạng. Câu chuyện đấu tố bà Năm do cựu Đại tá Bùi Tín
kể lại sau đây không phải là chuyện tưởng tượng trong tiểu thuyết mà là một sự
thật đau lòng còn in sâu trong tâm trí của nhiều người đã trải qua thời kỳ cải
cách ruộng đất ở miền Bắc:
Bà từng ủng hộ các chiến sĩ cộng sản từ
thời bí mật, từ những năm 1937,1938. Chính các ông Trường Chinh và Hoàng Quốc
Việt đã được bà che chở, nuôi dưỡng. Hai con trai bà hoạt động Việt Minh từ
thời bí mật, đi bộ đội giải phóng và đến 1954, một anh tên Nguyễn Công là Chính
ủy Trung đoàn, một anh tên Nguyễn Hanh là Đại đội phó Bộ đội Thông tin. Cố vấn
Trung Quốc nhận định bừa rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu.
Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi
chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công
với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến. Những người ấy bị cố vấn Tầu
và ông Đội trưởng quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che, chạy tội cho
địa chủ. Không khí ngột ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đấu tranh
trực diện của nông dân, kể tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị
cho toà án nhân dân với màn xử bắn.
Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy, ông
chạy về trung ương, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm
chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ
súng vào một phụ nữ và lại là người từng nuôi cán bộ cộng sản và là mẹ một
Chính ủy trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.” Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ
nói ông Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này!
Thế nhưng không có gì động đậy theo hướng
đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ là đã quá chậm. Các phóng viên hạ phóng tham gia
cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi. Lập luận của
“những phái viên đặc biệt của Mao Chủ tịch” là: “Việc con mụ Năm đã làm chỉ là
giả dối, nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất
của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố, xảo quyệt, tàn bạo, chúng không từ một
thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt, nhận rõ
kẻ thù của mình, dù chúng dở thủ đoạn nào.”
Tôi hỏi ông Hoàng Quốc Việt vậy thì ông
nghĩ sao về câu chuyện này? Lúc ấy là năm 1987, đã có “đổi mới”, “nói thẳng và
nói thật”. Ông nói: “Đến bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ!”15
Trong một cuộc gặp gỡ thân mật với một số
bạn cũ ở Washington DC, khi có người nhắc đến những chuyện kinh hoàng của thời
kỳ cải cách ruộng đất, ông Bùi Tín còn kể lại cái chết đau thương của cụ Nguyễn
Khắc Niêm, thân phụ bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một trí thức nổi tiếng lầu năm
trong giới Việt kiều ở Pháp rất có công với nhà nước VNDCCH. Cụ Niêm làm quan
tham tri của triều đình Huế, bị đội cải cách kết tội địa chủ phong kiến và nhốt
vào chuồng nuôi hươu. Đến bữa ăn, họ đổ cơm lên lá chuối trên mặt đất, bắt cụ
phải quỳ xuống và sủa “gâu, gâu” rồi mới được ăn. Cụ tham tri nhất định không
chịu và đành nhịn đói cho đến chết.
Một nhân chứng khác là Nguyễn Minh Cần, cựu
đảng viên cộng sản cao cấp đã bỏ Việt Nam sang Nga từ những năm 1960. Vào đầu
năm 2003, ông Cần có viết một bài tưởng niệm 50 năm thi hành cải cách ruộng đất
và đưa lên mạng thông tin điện tử ở hải ngoại. Bài này nhan đề “Xin đừng quên
nửa thế kỷ trước: vấy máu Cải Cách Ruộng Đất” là một tài liệu bổ túc đáng lưu
giữ trong tình trạng khan hiếm những kinh nghiệm sống về cải cách ruộng đất ở
Việt Nam. Đoạn dưới đây trích trong bài của ông Cần là một thí dụ điển hình
khác về những trường hợp khó tin nhưng có thật chỉ có thể xảy ra trong thời kỳ
cải cách ruộng đất 1953-1956 ở miền Bắc, nhất là trong những đợt ba, bốn và năm
từ đầu 1955 đến giữa 1956.
Ở khu Bốn hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn
Biên, Bí thư Khu ủy, và Đặng Thí, phó bí thư Khu ủy, khét tiếng hiếu sát trong
CCRĐ, họ đều là trưởng và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài
vè có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Đặng Thí ký
hai án tử hình trên ghi-đông xe đạp. Chuyện như sau: một đội tới làm CCRĐ ở một
xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi
không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh
nghèo chung của dân chúng ở đây.) Đặng Thí đả thông tư tưởng là cố vấn Trung
Quốc dạy rồi, phải có 5 phần trăm địa chủ. Đội sợ trên đì, tính ra cả làng từng
này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải tính ra 5 phần trăm địa chủ.
Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì… liếc mắt qua không
thấy có danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có
địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt đội trưởng.
Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn”, vội chạy lên đoàn báo
cáo. Giữa đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng đưa báo cáo và danh
sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết
nội dung, đặt “Đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà- cột,
rút bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Đi kèm với chiến dịch cải cách ruộng đất là
phong trào chỉnh huấn và chỉnh đốn tổ chức bắt đầu từ 1950, nhằm thanh lọc bộ
máy đảng, chính quyền và quân đội để củng cố tư tưởng chuyên chính vô sản trong
hàng ngũ cán bộ thuộc mọi ngành dân sự hay quân sự. Phong trào chỉnh huấn nhắm
vào thành phần trí thức trong các cơ quan chính quyền và đoàn thể nhân dân,
trong nội bộ đảng thì gọi là chỉnh đảng, trong quân đội thì gọi là chỉnh quân.
Phong trào này được phát động sau khi những những cán bộ cao cấp được gửi sang
Trung quốc học tập về “thổ địa cải cách” và “chỉnh đốn tác phong” (gọi tắt là
chỉnh phong). Ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc bắt đầu từ lúc này, một phần vì
các nhà cách mạng cộng sản Việt Nam thật tình thán phục “Chủ tịch Mao Trạch
Đông và cuộc chiến thắng vĩ đại của Trung Quốc,” một phần do sự ép buộc của các
cố vấn Trung Quốc, “những phái viên đặc biệt của Mao Chủ tịch,” mà ai cũng sợ
không dám cưỡng lại. “Điều lệ Đảng đã ghi rõ từ tháng 12, 1951 là nền tảng
chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam là tư tưởng Mao Trạch Đông.”16
Những người bất đồng ý với đường lối Trung Quốc và khó chịu với thái độ trịch
thượng của các cố vấn cũng đành phải giữ ở trong lòng hoặc chỉ dám thì thầm
riêng với nhau mà thôi.
Vũ Thư Hiên, một nhà văn miền Bắc chống chế
độ và bỏ việc làm ở Nga chạy sang Pháp tị nạn từ 1996, đã kể lại kinh nghiệm
bản thân về học tập chỉnh huấn năm 1951 như sau:
Chỉnh huấn là chuyện hết sức lạ lùng đối
với chúng tôi, những chàng trai học trò vừa xếp bút nghiên lên đường kháng
chiến. Cứ đinh ninh rằng mình cũng tựa như những tráng sĩ thời xưa, thanh gươm
yên ngựa ra sa trường. Đến chỉnh huấn mới ngã ngửa ra rằng không phải: đi theo
cách mạng trước hết là để cải tạo những tư tưởng thối tha, bao giờ cũng có sẵn
trong mình như một thứ tội tổ tông truyền. Phải cải tạo tư tưởng để xứng đáng
là người của Đảng, của xã hội mới…
Những cán bộ vừa dự chỉnh phong ở Hoa Nam
về làm hướng dẫn viên. Những người vừa qua một cuộc đại tẩy não bên nước bạn
rất nghiêm nghị, ít cười nói, trong bộ đồng phục cán bộ Trung quốc, với cây bút
Kim Tinh cài trước ngực, với cuốn sổ tay có hình Mao chủ tịch phương phi.
Thoạt đầu hướng dẫn viên giới thiệu một số
tài liệu — bài giảng của Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Ngãi Tư Kỳ— dành cho cán
bộ. Sau đó, mỗi học viên liên hệ những điều học hỏi được với tư tưởng và hành
động của bản thân, đưa những thu hoạch ra trình bày truớc tổ để tập thể góp ý,
phân tích, phê phán. Chúng tôi lén gọi những buổi phê phán là những tự xỉ vả.
Ai tự xỉ vả nhiều được coi là thành khẩn. Những bản cung khai tội lỗi xuất sắc
nhất được báo cáo trước toàn hội nghị, gọi là báo cáo điển hình.17
Georges Boudarel, một trí thức tả phái
người Pháp bỏ nghề dạy học ở Saigon để theo Việt Minh vì lý tưởng từ 1950 đến 1964,
đã mô tả lớp chỉnh huấn được diễn ra trong “một không khí tu viện” hoàn toàn
cắt đứt mọi liên hệ với đời sống bên ngoài. “Những bài giảng không nhằm vào
việc gợi óc suy tư hay phê phán bằng lý trí mà chính là để diệt trừ những khả
năng này như một căn bệnh tâm thần… Cuối cùng là một bản thú tội công khai như
trong những buổi sinh hoạt xưng tội của tôn giáo.”18
Mục đích của chỉnh huấn là tẩy não trí thức
khiến họ phải thành khẩn nhìn nhận tội lỗi của giai cấp tư sản và chịu khuất
phục trước giá trị của giai cấp vô sản, phải tự kiểm thảo và tự hạ mình xuống
thân phận kẻ bị trị. Nỗi đau khổ nhất của trí thức là phải viết đi viết lại lý
lịch của mình nhiều lần, vì sau mỗi lần viết là một lần đưa ra kiểm thảo, tra
hỏi và yêu cầu thú nhận thêm tội lỗi thành khẩn hơn nữa. Nói như Nguyễn Văn
Trấn: “Họ nói khổ sở không phải là nói ra lỗi lầm, mà khổ sở là phải bịa ra lỗi
lầm để bản kiểm thảo được coi là thành khẩn.”19 Có người chịu không
nổi sự hành hạ tinh thần này đã tự kết liễu đời mình cho được yên thân. Nhà văn
Doãn Quốc Sỹ có kể lại câu chuyện ông được chứng kiến trong thời gian phục vụ
kháng chiến: một cán bộ trong một khóa “chỉnh quân” đã tự tử, bị sĩ quan chỉ
huy cho là không xứng đáng với tác phong chiến sĩ nên bắt quăng xác vào rừng.
Do lời yêu cầu của đồng đội, ngày hôm sau xác của anh được phép đem chôn nhưng
thi thể đã bị thú rừng xé nát.20 Nguyễn Văn Trấn thì nhắc đến kết
quả khóa học của ông ở Bắc Kinh: “một đồng chí cũng cấp cao bị động viên “thản
bạch”, ban chiều lên hội trường nói ra những hành động tham ô, tối lại mua bia
táo đãi anh em, rồi khuya viết thư từ giã vợ và treo cổ.”21, (“thản
bạch” có nghĩa là nói thẳng nói thật).
Dưới chế độ cộng sản, nhà nước quản lý nhân
dân bằng lý lịch, cho nên ở Việt Nam cho đến khi có chính sách “đổi mới”, yếu
tố tài năng không quan trọng bằng thành phần xã hội hay liên hệ chính trị. Lý
lịch cá nhân với những nhận xét được cập nhật hoá thường xuyên của cơ quan làm
việc hay của công an có tính cách quyết định đối với vận mệnh của mỗi cán bộ và
công dân. Một cán bộ gôc bần nông hay cố nông được tin cậy và thăng tiến dễ
dàng hơn một người sinh trưởng trong một gia đình tư sản, phú nông hay địa chủ.
Đáng lo nhất hồi đó là những lý lịch có “liên quan” đến gia đình địa chủ bóc
lột, có thân nhân gia nhập các đảng phái quốc gia hay hợp tác với “địch”, thậm
chí gồm cả bà con làm việc ở miền Nam. Có bà con ở nước ngoài cũng là có
vấn đề, và nếu ở một nước “đế quốc” thì lại càng phức tạp. “Một gạch chéo, một
dấu hỏi, thế là ở vào một thế kẹt cứng. Tất cả mọi chuyện sẽ bị chặn lại hết,
từ vào đoàn, vào đảng, lên đại học, đi học nước ngoài, hoặc lên lương, lên cấp,
lên chức cũng vì vậy mà… để xem đã.”22
Nếu mục đích của chỉnh huấn là cải tạo tư
tưởng (tức tẩy não) thành phần trí thức tư sản thì chỉnh đốn tổ chức là hành
động thực tế nhằm củng cố hệ thống đảng và nhà nước qua việc thanh trừng nội
bộ, loại bỏ hay giáng cấp những cán bộ thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản
trong các cơ quan dân sự và quân sự. Boudarel nhận xét đúng khi nói rằng chỉnh
đảng và chỉnh đốn tổ chức là “động cơ của cải cách ruộng đất.” Vì muốn trả lại
đất cho nông dân thì phải dựa vào đảng cộng sản mà đảng chỉ có thể thuần nhất
nếu không bị những phần tử phản động, kẻ thù của giai cấp công nông, lọt vào
lũng đoạn. Để loại trừ những phần tử phá hoại này, song với việc trừng trị các
thành phần thù địch ở nông thôn qua côna tác vận động quần chúng, cần phải
thanh lọc hàng ngũ trí thức tiểu tư sản thành thị qua công tác củng cố tổ chức
được thực hiện xuyên suốt từ địa phương tới trung ương. Trong khi đó phải tăng
cường bộ máy đảng bằng việc tuyển mộ đảng viên mới và đưa những cán bộ có “đạo
đức cách mạng” vào những chức vụ lãnh đạo. Tiêu chuẩn chọn lựa không căn cứ vào
học thức hay khả năng chuyên môn mà thuộc thành phần xã hội tốt (bần cố nông),
có quyết tâm và thành tích cao về đấu tranh giai cấp.23
Những lớp chỉnh huấn và cải tạo tư tưởng
trong vài năm đầu mới chỉ chứng tỏ được lợi ích về mặt lý thuyết nhưng thiếu
bài học thực tế vì còn “xa rời quần chúng.” Các cán bộ đã học tập do đó được
huy động về nông thôn để thi hành công tác “vận động quần chúng,” tức là thúc
đẩy bần cố nông dứt khoát tiêu diệt thành phần địa chủ. Trước hết, cán bộ thực
hiện “tam cùng” tức là cùng ăn, cùng ở, cùng làm với các gia đình bần cố
nông. Trong thời gian này, cán bộ thăm hỏi hoàn cảnh nghèo khổ của nông dân lao
động, giải thích bản chất xấu xa và các kỹ thuật bóc lột của phú nông và địa
chủ, với mục đích khuyến khích họ căm thù, nhận diện và tố cáo những thành phần
này ở trong làng. Công tác “thăm nghèo hỏi khổ” dẫn đến việc “bắt rễ xâu chuỗi”
tức là liên kết những bần cố nông đã “giác ngộ” lại với nhau và giúp đỡ
họ chuẩn bị việc “đấu tố” các địa chủ và phú nông trước “tòa án nhân dân.”
Dưới sự chỉ đạo của ủy Ban Cải Cách Ruộng
Đất do Hồ Viết Thắng trực tiếp điều hành, chiến dịch CCRĐ được thực hiện bởi
các “đoàn cải cách” (cấp tỉnh, huyện) và các “đội chủ công” (cấp làng xã), nhận
lệnh trực tiếp từ ủy Ban trung ương và có quyền quyết định tuyệt đối. Ở đây cần
phải nhắc lại vai trò quan trọng của các cố vấn Trung quốc không những chỉ
trong việc thiết lập chính sách mà ngay cả trong những quyết định tối hậu như
trường hợp xử bắn bà “mẹ chiến sĩ” Nguyễn Thị Năm đã nói ở trên. Tác giả cuốn Viết
cho Mẹ và Quốc Hội, khi được cử làm đội trưởng tham gia thí điểm cải cách
ruộng đất ở Thanh Hoá, đã xác nhận rằng “Đội chủ công là đội ruột của Đoàn
nhưng nhiều việc không nghe lời đoàn mà chúng tôi coi đó là lệnh của mấy ông cố
Tàu.”24 Sau này, các đội trưởng đều là những người thuộc thành phần
bần cố nông và các đội cải cách đi phát động tới đâu là gieo nỗi kinh hoàng tới
đó, thậm chí đương thời đã có câu tục ngữ “nhất đội nhì trời.”
Các phiên xử của toà án nhân dân thực ra
chỉ là những phiên “tố khổ” các bị cáo do những nhân chứng tự nhận mình là nạn
nhân của những hành động tàn ác hay dâm ô của bị cáo. Những tội trạng thật hay
giả đều được tố giác bằng thái độ giận dữ và những lời lẽ hằn học đã được học
tập trong thời gian “thăm nghèo hỏi khổ” của các cán bộ cải cách. Bị cáo không
có luật sư biện hộ và nếu chối cãi sẽ bị xỉ vả, đánh đập cho đến khi nhận tội.
Trong số quần chúng tham dự đã có sẵn những cán bộ hướng dẫn và những người phụ
họa la hét để áp đảo tinh thần của bị can. Không có những vụ tha bổng trong các
phiên xử của toà án nhân dân. Bản án nhẹ nhất là tịch thu tài sản và quản thúc
tại gia. Án tử hình được thi hành ngay tại chỗ, thường bằng cách đem bắn, chôn
sống, hay bỏ vào bao trấn xuống nước. Vì mục đích của cải cách mộng đất là tiêu
diệt giai cấp địa chủ nên việc thi hành không tránh khỏi tính cách máy móc và
những vụ trả thù cá nhân khiến cho nhiều người bị kết tội oan uổng. Nhiều trung
nông bị đôn lên thành phú nông và phú nông thành địa chủ để đem ra xử tội, nhất
là khi cần phải có đủ tỉ lệ 5% trên số bần cố nông trong xã, như đã được
qui định bởi các cố vấn Trung Quốc. Nạn nhân không những chỉ là thường dân mà
gồm cả những cán bộ có công với Đảng.
Trong một cuộc đàm thoại với cựu ngoại
trưởng Ung Văn Khiêm (khi đó là ủy viên trung ương đảng, sau này cũng bị thanh
trừng), Nguyễn Văn Trấn có nhắc đến chuyện một ông đồ ở Hải Dương treo cổ tự tử
vì bị xỉ nhục là “thằng” và lãnh án quản thúc tại gia khi bà vợ lớn bị toà xử
về tội bóc lột sức lao động của tá điền. Ông cũng đặc biệt nhắc đến chuyện một
đảng viên bị tra tấn và xử tử. Sau đây là lời Nguyễn văn Trấn kể lại câu chuyện
giữa hai cán bộ trí thức cộng sản:
“…Người nhà nho ấy chết vì Đảng đã phát
động người ta chà đạp đạo lý luân thường. Anh nghe, anh có thấy tội nặng
của trung ương các anh không?
Anh Khiêm nói hóm:
- Theo chú mày là tội gì nè? Ông già tự vận
chớ có ai đem bắn ổng đâu!
- Trời ơi! Anh chà đạp con người là anh đã
giết ổng rồi, truớc khi ổng tự tử!
Tôi phải nói tiếp theo một tội các anh giết
người đồng chí. Đồng chí ấy tên là Nguyễn Văn Soạn, đương bí thơ liên chi tứ xã
Lâm Thao. Bị qui đủ ba tội để được tử hình.
Tội đầu: phản động chui vào hàng ngũ Đảng.
Tội kế: địch cài để làm chiến tranh tâm lý.
Tội ba: địa chủ bóc lột, cho dân mướn đất
để cho dân cám ơn địa chủ nuôi mình.
Anh bị tra tấn gì anh cũng không nhận mình
có tội.
Bị đấu tố và giam chung với anh là một quần
chúng tốt. Người ta cũng dựng lên theo đúng thủ tục, có đủ ba tội mà tội đầu là
tuyên truyền nhục mạ Đảng. Mới bị sơ vài cây đòn gánh vào lưng, anh đã: “dạ,
thưa có hết”.
Đồng chí Soạn hỏi: ‘sao vậy?’
Người quần chúng trả lời rằng: ‘đời tôi có
đảng, mà đảng đã phát động người của đảng giết tôi thì tôi chỉ có chịu chết mà
thôi. Bây giờ đồng chí cùng tôi ôm nhau mà chết. Khác nhau chỉ có một điều:
thân thể của đồng chí thì bầm dập còn của tôi thì lành’.
Các đoàn cải cách đã rút kinh nghiệm về
cách đem phạm nhơn đi bắn, và đã cho lính bắn sau lưng kẻ thọ hình. Vì kinh
nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la: Đảng Lao Động
Việt Nam muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm! Kẻ địch của ta chúng nó gian ác lắm.
Chúng nó vẫn dùng hơi thở cuối cùng để bôi xấu chế độ ta!”25
Như đã nói ở đầu chương, chính sách cải
cách ruộng đất được thi hành toàn diện và triệt để từ tháng Ba 1955 cho đến
tháng Bảy 195626 thì phải chấm dứt vì kết quả tàn khốc của nó đã gây
nên những vụ chống đối kịch liệt của dân chúng và cả trong hàng ngũ đảng viên.
Tuy nhiên, việc áp dụng cải cách ruộng đất cùng với phong trào chỉnh huấn và
vận động quần chúng trong những năm tháng trước hội nghị Genève 1954 cho đến
cuối thời hạn 300 ngày di cư (tháng Năm 1955) —dù chỉ giới hạn ở một số địa
phương trong vùng Việt Minh kiểm soát— đã đủ gây nên tâm trạng kinh hoàng trong
dân chúng toàn miền Bắc khiến cho số dân kéo nhau vào miền Nam tị nạn lên đến
trên 850,000 người.
Công cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam đã đạt đến mức độ
khủng khiếp nhất và phạm phải những sai lầm nghiêm trọng nhất, căn bản là do
chủ trương đấu tranh giai cấp, tiêu diệt địa chủ nông thôn và tư bản thành thị
để tiến đến chuyên chính vô sản. Từ chủ
trương ấy, với ảnh hưởng của lãnh tụ Mao Trạch Đông và uy quyền của các cố vấn
Trung Quốc, đảng cộng sản Việt Nam lại áp dụng máy móc các biện pháp cực đoan
về “thổ địa cải cách” của Trung Quốc đối với thành phần địa chủ, trí thức và
đảng phái quốc gia mà không phân biệt hoàn cảnh khác nhau ở mỗi nước.
Ở Việt Nam, nhất là đồng bằng miền Bắc, đất
đai không rộng lớn như ở Trung Quốc, đại đa số là trung nông và bần nông do đó
việc qui định thành phần địa chủ để đem ra đấu tố rất là cưỡng ép. Vả lại, tổ
chức xã thôn ở nước ta đã tồn tại hàng ngàn năm trong tinh thần tương thân tương
trợ với những sinh hoạt truyền thống yên vui, hội hè đình đám quanh năm như đã
thấy trong bài hát dân gian: “Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, tháng Hai cờ bạc, tháng
Ba hội hè…”
Dù không tránh khỏi tình trạng một số người
giàu bóc lột dân nghèo, xã hội đồng ruộng không bao giờ có xung đột giai cấp
giữa bần cố nông và điạ chủ. Cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập ở Việt
Nam cũng không giống cuộc nội chiến Mao-Tưởng ở Trung Quốc, cho nên
thành phần trí thức yêu nước không cộng sản ở Việt Nam không thể đương nhiên bị
qui kết là phản động hoặc cần được giác ngộ bằng học tập lao động, tự xỉ nhục
và tự thú để lãnh sự trừng phạt nặng nề hay ít ra cũng bị đối xử như những công
dân hạng nhì. Ngoài ra, ở Trung Quốc, Trung Hoa Quốc Dân Đảng cầm quyền suốt
mấy chục năm nên mọi cấp bậc trong guồng máy hành chính trên toàn quốc đều do
các đảng viên hoặc cảm tình viên của Quốc Dân Đảng nắm giữ. Do đó, đảng cộng
sản Trung quốc phải gấp rút chỉnh đốn tổ chức, loại trừ mọi nhân viên của chế
độ cũ bằng những biện pháp trả thù và hình phạt tàn ác. Còn ở Việt Nam, trước
khi Việt Minh nắm chính quyền chỉ có một chính phủ không đảng phái do học giả
Trần Trọng Kim cầm đầu chưa đầy năm tháng và nhiều bộ trưởng sau đó cũng đã gia
nhập Mặt trận Việt Minh để chống Pháp. Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách
Mệnh Đồng Minh Hội và các đảng phái quốc gia khác đều đã bị tiêu diệt ở trong
nước từ 1946, số đảng viên còn lại đều phải chạy vào miền Nam hoặc sống lưu
vong ở nước ngoài, vấn đề “chỉnh đốn tổ chức” để thanh trừng phe đảng quốc gia
trong guồng máy hành chánh theo kiểu Trung Quốc do đó không cần thiết, mà hậu
quả chỉ là những vụ truy lùng gượng ép, trả thù cá nhân và “ta đánh cả ta”, làm
tê liệt nguồn nhân lực xây dựng đất nước.
Nguy hiểm nhất là cuộc cải cách ruộng đất
đã được thực hiện theo một khẩu hiệu của Đảng cộng sản là “thà chết mười người
oan còn hơn để sót một địch.”27 Đây cũng lại là một hình thức áp
dụng huấn thị của Mao Trạch Đông: “Kiểu uông tất tu quá chỉnh” mà Nguyễn Văn
Trấn trong lúc đi học ở Bắc Kinh đã được giảng là: “như cái cây nó cong về bên
hữu, ta muốn uốn cho nó ngay thì tất nhiên là phải bẻ cong nó về bên tả. Buông
ra nó trở lại là vừa.” Và ông đã phải kêu lên: “Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe
lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật trở lại giết chết bao nhiêu
vạn sanh linh”28 Quả thật, chỉ cần đọc những vần thơ khát máu của Tố
Hữu và Xuân Diệu hối thúc nông dân thẳng tay tàn sát địa chủ, người ta cũng có
thể hình dung được cảnh tượng “long trời lở đất” của chiến dịch cải cách ruộng
đất trong những năm 1953-1956 ở miền Bắc Việt Nam.29
Kết quả là chiến dịch cải cách ruộng đất đã
hành hạ và tàn sát quá nhiều người vô tội, kể cả những đảng viên và những người
dân có công với kháng chiến, gây nên những vụ chống đối kịch liệt trong dân
chúng. Ban lãnh đạo Đảng đã kịp nhận ra những sai lầm nghiêm trọng đó nên ngay
từ Hội nghị Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam lần thứ 14 vào tháng Hai 1956 đã
nêu rõ: “Do nhận thức về hai nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
nước ta chưa sâu sắc, do đánh giá tình hình nông thôn miền Bắc không được toàn
diện vì thiếu điều tra nghiên cứu một cách đầy đủ và cụ thể cho nên đã phạm một
số sai lầm về qui định chính sách cũng như về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường
lối, phương châm, chính sách cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.”30
Tiếp theo đó, trong kỳ họp lần thứ 4 của Quốc Hội từ 20 đến 26.3.1955, chính
phủ báo cáo việc bổ sung chính sách nhằm “nâng cao hiệu lực của pháp luật, giảm
bớt áp lực “đấu tố” của quần chúng…
Tuy vậy, thực tế cho đến khi sửa sai thì
thấy những điều chỉnh bổ sung về chính sách đều không được nghiêm túc thi
hành.”31 Bản báo cáo này ghi rõ:
Mọi địa chủ nào không phải là cường hào
gian ác thì đều không bị đưa ra truy tô’ trước tòa án nhân dân, đặc biệt là
ruộng đất, tài sản được trưng mua.
Những địa chủ cường hào gian ác đã phạm
nhiều tội ác như chiếm đoạt ruộng đất, giết hại nông dân, phá hoại cuộc vận
động cải cách ruộng đất, v.v…, từ nay sẽ đưa ra tòa án nhân dân đặc biệt xét xử
theo pháp luật, tại đó nhân dân có quyền tố khổ. Sẽ không tổ chức đấu.
Những cha cố, sư sãi… quản lý nhà đất của
nhà Chung, nhà Chùa, hoặc có ruộng riêng cho phát canh, đều không quy là địa
chủ nhưng vẫn phải chấp hành đúng chính sách ruộng đất.
Những nhà công thương nghiệp kiêm địa chủ
sống ở thành thị nói chung không bị gọi về nông thôn để qui thành phần khi ở
địa phương phát động quần chúng giảm tô hoặc cải cách ruộng đất.
Những địa chủ nhân sĩ dân chủ, thân sĩ yêu
nước, địa chủ kháng chiến, địa chủ thường, bản thân hoặc có con tham gia Quân
đội Nhân dân, làm cán bộ, làm công chức của chính quyền nhân dân, những công
chức lưu dụng và những nhà công nghiệp, thương nghiệp ở thành thị thuộc thành
phần địa chủ nhưng không phải là cường hào gian ác đều được phép hiến ruộng đất
theo những nghuyên tắc pháp luật đã quy định.32
Vì các đội cải cách có toàn quyền sinh sát
từ những ngày đầu của chiến dịch “phóng tay phát động quần chúng” đã có thói
quen đi tới đâu gây thảm họa tới đó, “đánh tràn lan vào trung nông, phú nông và
những người có một ít ruộng đất cho thuê, đánh tràn lan cả vào cơ sở Đảng”33
khiến cho không những chỉ có dân chúng mà cả đến các cấp chính quyền dân sự và
quân sự địa phương đều phải khiếp sợ. Với thói quen lộng hành ấy, họ đã không
quan tâm đến những biện pháp “điều chỉnh bổ sung” của chính phủ. Bởi thế, ngày
20.7.1956, lãnh đạo Đảng phải hạ lệnh chấm dứt giai đoạn V cải cách ruộng đất
và bắt đầu cho thi hành những biện pháp “sửa sai”.
Ngày 18.8.1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư cho đồng bào nông thôn và cán bộ nhìn nhận có những sai lầm trong cải cách
ruộng đất và thông báo “Trung ương Đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm
những sai lầm khuyết điểm ấy… và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa, nhằm đoàn
kết cán bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất.”34
Ngày 24.8, nhật báo Nhân Dân công khai nhìn nhận rằng có những đảng viên
trung kiên, kể cả chủ tịch Ủy ban Kháng chiến, đã bị hành quyết và bêu xấu, đến
nỗi “Anh em trong cùng một gia đình không còn dám đến thăm nhau, và dân chúng
không dám chào hỏi nhau khi gặp nhau ngoài đường phố”.35
Tháng Chín 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã duyệt xét kỹ lưỡng tình hình, nhận định các nguyên
nhân sai lầm và đề ra 12 điểm chính sách để sửa sai. Trong kỳ họp kéo dài một
tháng này, Hội nghị cũng qui lỗi lãnh đạo sai lầm vào Ủy ban Cải cách Ruộng đất
và đưa ra biện pháp kỷ luật: Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, Hoàng
Quốc Việt và Lê văn Lương bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị, và Hồ Viết Thắng bị
loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ngày 29.10, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp,
vốn không có trách nhiệm gì về cải cách ruộng đất và còn đang giữ được hình ảnh
của “người hùng Điện Biên Phủ” trong dân chúng, được cử ra thay mặt Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc bản báo cáo của hội nghị Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam trước
một cuộc mít-tinh lớn tại Nhà Hát Nhân Dân Hà Nội, chính thức công nhận những
sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Bản báo cáo rất dài giải thích “đường lối nông
thôn của Đảng và Chính phủ đã không được chấp hành đầy đủ”, phân tích các sai
lầm đã phạm, “chủ yếu là trong các vấn đề quy định thành phần, đánh địch và
chỉnh đốn tổ chức.”
Riêng về mặt lãnh đạo, bản báo cáo nhấn
mạnh:
“Nghị quyết của Hội nghị Trung ương đã phê
phán nghiêm khắc và nêu rõ đặc điểm của những sai lầm nghiêm trọng trong cải
cách ruộng đất. Sau khi nhắc đến việc hoàn thành về căn bản nhiệm vụ cách mạng
phản phong, nghị quyết nói: Tuy nhiên, trong cuộc vận động giảm tô và cải
cách ruộng đất, về mặt lãnh đạo, chủ yếu là trong việc chỉ đạo thực hiện, chúng
ta đã phạm nhiều sai lầm. Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo
dài, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng,
trái với nguyên tắc và điều lệ của một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trái với
chế độ pháp luật của Nhà nước dân chủ nhân dân. Những sai lầm đó không những đã
hạn chế những thắng lợi thu được mà lại gây ra những tổn thất cho cơ sở của
Đảng ở nông thôn cũng như ở thành thị, ảnh hưởng nhiều đến tình cảm và đời sống
bình thường của nhân dân ta, làm cho tình hình nông thôn căng thẳng, ảnh hưởng
đến tinh thần đoàn kết và phấn khởi trong Đảng và trong nhân dân, đến công cuộc
củng cố miền Bắc, đến sự nghiệp đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà.”36
Nhưng chỉ mấy ngày sau, 2.11.1956, một vụ
nổi loạn và đàn áp đẫm máu đã xảy ra ngay tại Nghệ An, sinh quán của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Bernard Fall thuật lại chuyên này theo sự ghi nhận của các đại
biểu Canada trong ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Hôm đó, nhân dịp ủy hội
đi công tác, một số dân làng kéo đến chỗ xe Jeep của đoàn và đưa đơn xin can
thiệp cho được phép di cư vào Nam. Một bộ đội Việt Minh dùng báng súng để giải
tán dân làng nhưng bị họ đánh trả và cướp mất súng. Người lính Việt Minh trở
lại với một số đồng đội nhưng bị nông dân kéo ra đông hơn và chống lại kịch
liệt. Tới chiều dân chúng tụ tập mỗi lúc một đông và chuẩn bị kéo nhau lên tỉnh
giống như cuộc nổi loạn Soviet Nghệ tĩnh phản đối Pháp năm 1930. Trước sự đe
dọa ấy, Hà Nội đưa Sư đoàn 325 vào dẹp loạn, số người bị giết và bị bắt lên đến
gần 6,000 người. Vì đúng vào lúc đó có vụ Liên Xô đàn áp cuộc nổi loạn ở
Hung-ga-ri và cuộc khủng hoảng kênh Suez cho nên dư luận thế giới không chú ý
đến tấn thảm kịch ở Nghệ An.37
Sau vụ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần
phải sử dụng đài phát thanh và báo chí xin lỗi đồng bào, nhất là vì “người đã
chết không thể sống lại được.”38 Chiến dịch sửa sai được phát động
mạnh mẽ. Báo Nhân Dân ngày 16.2.1957 loan tin những đảng viên được phục
hồi chức vụ đòi bắt giữ những kẻ đã tố cáo họ. Cũng báo đó ngày 19.2 nhận định
rằng “những sai lầm phạm phải trong cải cách ruộng đất đã tác động nghiêm trọng
đến các bộ phận Đảng trên toàn quốc.” Ba mươi tám năm sau, trong khóa họp để
tổng kết một số vấn đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954-1975, khi đánh giá lại cuộc
cải cách ruộng đất, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kết luận như
sau:
Căn cứ trên những kết quả đạt được và căn
cứ vào hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ, thì việc tiếp tục
giải quyết vấn đề ruộng đất, xóa bỏ những tàn dư của chế độ phong kiến là cần
thiết.
Căn cứ tình hình thực tế nông thôn miền Bắc
nước ta sau năm 1954, căn cứ vào số ruộng chia cho nông dân trong cải cách
ruộng đất, căn cứ tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương cải cách như đã làm là không cần thiết.
Đó là vì trước khi tiến hành cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ, chế độ phong
kiến đã căn bản bị xoá bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn bản thực hiện
với tỉ lệ hơn 2/3 ruộng đất đã vào tay nông dân, với quyền làm chủ của nông dân
trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống
Pháp. Kinh nghiệm ở miền Nam sau khi hoàn toàn giải phóng cho thấy, mặc dầu vấn
đề ruộng đất có những phức tạp, nhưng có thể thực hiện mục tiêu người cày có
ruộng bằng con đường thích hợp nhất.”39
Chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc, không kể đợt
thí điểm ở Thái Nguyên từ 25.12.1953 đến 31.3.1954, được tiến hành tổng cộng
trong năm đợt:
Đợt một (01.04.54 đến 22.10.54) được tiến hành một cách chậm
chạp khi trận Điện Biên Phủ đang diễn ra cho đến ngay sau Hội nghị Genève.
Đợt hai (23.10.54 đến 15.01.55) thực hiện ở 22 xã thuộc Thái
Nguyên, 100 xã thuộc Phú Thọ, 22 xã thuộc Bắc Giang và 66 xã thuộc Thanh Hoá,
cộng là 210 xã.
Đợt ba (18.02.55 đến 20.06.55) thực hiện ở 106 xã thuộc Phú
Thọ, 84 xã thuộc Bắc Giang, 65 xã thuộc Vĩnh Phúc, 22 xã thuộc Sơn Tây, 115 xã
thuộc Thanh Hoá và 74 xã thuộc nghệ An, cộng là 466 xã.
Đợt bốn (27.06.55 đến 31.12.55) thực hiện ở 17 xã thuộc Phú Thọ,
1 xã thuộc Bắc Giang, 111 xã thuộc Vĩnh Phúc, 60 xã thuộc Bắc Ninh, 71 xã thuộc
Sơn Tây, 98 xã thuộc Hà Nam, 47 xã thuộc Ninh Bình, 207 xã thuộc Thanh Hoá, 5
xã thuộc Nghệ An, 227 xã thuộc Hà Tĩnh, cộng là 859 xã.
Đợt năm (25.12.55 đến 30.07.56) thực hiện ở 8 xã thuộc Bắc Ninh,
45 xã thuộc Ninh Bình, 163 xã thuộc Nghệ An, 6 xã thuộc Hà Tĩnh, 118 xã thuộc
Quảng Bình, 21 xã thuộc Vĩnh Linh, 217 xã thuộc Hải Dương, 149 xã thuộc Hưng
Yên, 294 xã thuộc Thái Bình, 83 xã thuộc Kiến An, 47 xã thuộc Hà Nội, 9 xã
thuộc Hải Phòng, 40 xã thuộc Hồng Quảng, cộng là 1,720 xã.
Ngoài ra có tổng cộng tám đợt giảm tô tiến
hành ở 1,875 xã trong suốt thời gian cải cách ruộng đất. 40
Như vậy, cải cách ruộng đất đã được chính
thức thực hiện trong thời gian hơn ba năm ở 3,314 xã (sau chia lại thành 3,653
xã) thuộc 22 tỉnh bao trùm cả đồng bằng và trung du miền Bắc, gồm 2,435,518 gia
đình với 10,699,504 nhân khẩu. Tổng số cán bộ đoàn, đội cải cách được điều động
vào công tác là 48,818 người.
Kết quả về giảm tô đã thu được trong 1,875
xã là: địa chủ, phú nông phải trả lại 31,110 tấn thóc tô, và tịch thu của “địa
chủ Việt gian, phản động, cuờng hào gian ác” 15,475 ha ruộng đất và 8,246 trâu
bò.
Về cải cách ruộng đất, đã tịch thu, trưng
thu, trưng mua 810,000 ha ruộng đất, 106,448 trâu bò, 1,846,000 nông cụ và
148,565 nhà cửa, tất cả đem chia cho 2,104,138 hộ nông dân và nhân dân lao động
gồm 8,323,636 nhân khẩu, tức 72,8% số hộ ở những nơi đã cải cách ruộng đất.40
Nếu lấy tổng số tịch thu, trưng thu và
trưng mua trên đây chia cho 2,104,138 hộ nông dân thì mỗi hộ được 0.38 ha
ruộng, chưa được 1 nông cụ, chưa được 1/10 ngôi nhà (tức là khoảng 14 hộ ở
chung một ngôi nhà). Trên căn bản đó, đời sống nông dân còn nghèo đói hơn nhiều
so với thời làm thuê làm mướn trước cách mạng.
Trở lại vấn đề “sửa sai”, các biện pháp
được thi hành gồm có trước hết là phục hồi danh dự cho các cán bộ đảng viên đã
bị xử lý oan ức bằng cách thu nhận họ trở lại đảng và cho trở về chức vụ cũ.
Những người đã bị giết hay đã chết trong thời gian chịu án thì được ghi nhận là
“thành phần yêu nước đã hi sinh cho cách mạng.” Thân nhân và con cái họ được
đền bù bằng những ân huệ tương xứng với công lao của người quá cố. Đối với các
địa chủ, phú nông bị kết án oan, Nhà nước cho qui định lại thành phần (thí dụ
từ địa chủ xuống phú nông, từ phú nông xuống trung nông.) Nếu họ đã chết thì
thân nhân và con cháu họ được bồi thường thiệt hại vật chất và đối xử không
phân biệt về nguồn gốc giai cấp.
Tính đến tháng Chín 1957, theo báo cáo của
các khu tỉnh ở đồng bằng và trung du sau khi đã sửa sai thì chính quyền
đã duyệt xét lại được 63,113 hộ bị quy là địa chủ ở 2,035 xã, kết quả chỉ còn
31,269 hộ (49.5%) bị qui định là địa chủ thực sự, chiếm tỉ lệ 2,2% trên tổng số
hộ ở 2,035 xã (không phải 5% như tỉ lệ do cố vấn Trung quốc đã áp đặt), ở khu
Tự trị Việt Bắc, có 2,245 hộ ở 393 xã đã bị quy là địa chủ, sau khi sửa sai chỉ
còn 381 hộ bị quy là địa chủ thực sự, tức là đã có 1,864 hộ (83%) bị oan ức. Ở
miền biển, tỉ lệ quy sai trung bình cũng lên tới 70%.
Về địa chủ cường hào gian ác, vẫn theo báo
cáo đã nhận được từ 2,035 xã ở đồng bằng và trung du tính đến tháng Chín 1957,
có 14,908 người đã bị đem ra xét xử, sau khi sửa sai thì thấy có 10,976 người
(74%) bị xử oan. Về địa chủ có công với kháng chiến, trong cải cách ruộng đất
chỉ công nhận có 461 người. Sau khi sửa sai, con số lên tới 2,696 người (gần
gấp sáu lần).
Về xử lý tài sản, theo tài liệu của 431 xã
ở các tỉnh đã được thống kê, có 4,777 hộ bị quy sai, bị tịch thu, trưng thu hay
trưng mua 18,856 mẫu 5 sào 10 thước ruộng đất, 5,048 trâu bò và 3,772 căn nhà.
Sau kỳ sửa sai tháng Chín 1957, chính phủ đã đền bù cho họ được 3,857 mẫu 3
thước cộng với 4,742 mẫu 9 sào 6 thước đã được để lại. về trâu bò, đã đền bù
đựợc 1,708 con, còn thiếu 3,340 con. về nhà cửa, đã trả lại nhà cũ cho 2,263
hộ, ngoài ra còn có 975 hộ được trả lại nhà cũ nhưng vui lòng nhường lại cho
bần cố nông đang thiếu chỗ ở. Đối với các hộ trung nông bị quy sai, nếu bị trả
lại thiếu ruộng đất trâu bò, chính phủ quyết định sẽ trích ngân sách nhà nước
ra để đền bù và trả dần trong 5 năm.41
Trên thực tế, vấn đề “sửa sai” không đơn
giản như các con số đã báo cáo. Nguyễn Minh cần, trong phần cuối bài “Xin đừng
quên….” đã dẫn ở trên, vì đã từng được giao trách nhiệm sửa sai nên thấy rõ nội
tình phức tạp của vấn đề này:
Có nhiều cái sai không thể nào sửa được.
Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại tinh thần người ta (có
không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn,) làm gia đình người ta tan vỡ
thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm
nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị
tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho
người chủ cũ. Nhưng khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy
gạch, cạy cửa, rỡ ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan nát cả
ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước. Còn
các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa, nông
dân ăn hết bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai
hư hỏng rồi) thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Đó là không nói đến những quan
hệ tình cảm đã bị tổn thương giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa
thầy trò, giữa hàng xóm láng giềng thì chẳng làm gì được ngoài việc khuyên nhủ
chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này làm được, là trả tự do cho những
người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố
cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán
bộ mới với cán bộ cũ.
Về số nạn nhân bị giết oan, không có con số chính thức
nào được công bố. Theo những nguồn
tin và những cách tính toán khác nhau thì tổng số người bị sát hại trong cải
cách ruộng đất là từ 10,000 đến 200,000 người. Theo Bernard Fall, người đã về
Việt Nam nghiên cứu năm 1962, không thể biết đích xác các con số, nhưng “con số
ước đoán có cơ sở nhất là vào khoảng gần 50,000 người ở miền Bắc bị xử tử trong
những vụ liên quan đến cải cách ruộng đất và số người bị bắt và đưa đi lao động
cưỡng bách ít nhất cũng gấp đôi con số đó.”42 Nguyễn Minh cần, trong
bài viết nói trên, kể chuyện có hỏi tướng Võ Nguyên Giáp về số nạn nhân bị giết
thì được ông Giáp trả lời rất nhanh là khoảng 20,000. Con số dường như có cơ sở
vững chắc hơn cả là khoảng 15,000. Người đầu tiên đưa ra con số này là nhà báo
Tibor Mende khi thuật lại lời ông Hồ Chí Minh là có từ 12,000 đến 15,000 người
bị giết oan. Người thứ hai là T.s. Võ Nhân Trí, cựu đảng viên cộng sản cao cấp,
tác giả cuốn Croissance Economique de la République Démocratique du Vietnam
(1945-1965). Ông Trí cho biết trong khi soạn cuốn sách này cho Hà Nội xuất
bản, ông đã được đọc trong Văn khố của ủy ban Trung ương Đảng bản báo cáo của
Công an gửi cho ủy ban Trung Ương Đảng năm 1956, trong đó có nói đến 15,000
người vô tội bị tử hình. Tuần báo Time số ra ngày 1 tháng Bảy 1957 thuật
lại việc “15,000 người bị giết đã được an táng tử tế khi sửa sai.” Con số này
sát với thực tế nếu ta lấy con số 10,976 người trong báo cáo về sửa sai trên
đây của riêng miền đồng bằng và trung du cộng với những con số ít hơn ở khu Tự
trị Việt Bắc và miền biển mà tỉ lệ số hộ bị quy sai còn cao hơn nhiều. Số người
bị tù đày do cải cách ruộng đất cũng không được biết rõ là bao nhiêu. Theo
Joseph Buttinger thì có khoảng từ 50,000 đến 100,000 người, về số người bị giam
cầm được thả khi sửa sai, Tibor Mende cho biết có khoảng 20,000 người.43
Ở trong nước, từ mấy chục năm nay, vấn đề
cải cách ruộng đất vẫn là một đề tài cấm kỵ. Ngoài một số tài liệu giáo khoa và
bài vở nghiên cứu lịch sử theo quan điểm chính thức, như bài “The Land Reform”
của Trần Phương trong tạp chí Vietnamese Studies đã được trích dẫn ở đầu
chương, chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ và xác thực về chính sách,
những thể thức thi hành và kết quả của cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Công việc
này chỉ có thể thực hiện bởi những nhà nghiên cứu khách quan có điều kiện sưu
tầm tư liệu ở các thư viện và kho lưu trữ cuả các cơ quan Đảng và Nhà nước ở Hà
Nội gồm các văn kiện chính thức về hành chánh và pháp lý, các bản báo cáo về
kết quả của những đợt cải cách, học tập cải tạo, thanh trừng hàng ngũ và cán
bộ, các phiên xử của tòa án nhân dân, về phản ứng chống đối của các thành phần
dân chúng cũng như trong hàng ngũ cán bộ đảng viên, các bài báo và bản tín phát
thanh, biên bản các phiên họp của ban lãnh đạo về các biện pháp đối phó hay sửa
đổi, v.v… Cho đến khi có được những điều kiện nghiên cứu khách quan đó, các học
giả chỉ có thể dựa vào những tài liệu chính thức đã công bố và những thông tin
do các nhân chứng thuật lại bằng miệng cho người thân ở trong nước hoặc ghi
chép và phổ biến công khai khi đã ra ngoài nước. Những nhân chứng này đều đã
lớn tuổi nên những câu chuyện như của cựu Đại tá Bùi Tín hay các cựu đảng viên
cao cấp như Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Minh cần và Võ Nhân Trí kể lại trên đây đều
là những tài liệu hiếm có. Dù có giọng văn chỉ trích hay châm biếm chế độ, các
tác giả này đều đã thuật lại những sự thực lịch sử cần phải được ghi lại làm
bài học.
Mặc dù công nhận sai lầm về lãnh đạo trong
cải cách ruộng đất, do đó đã sửa sai để làm nguôi nỗi đau thương và oán hận
trong hàng ngũ cán bộ và dân chúng, Đảng và Nhà nước vẫn khẳng định rằng cải
cách ruộng đất không những là đúng và cần thiết mà, hơn thế nữa, còn là một
thắng lợi to lớn: “Cải cách ruộng đất đã thực hiện được khẩu hiệu người cày
có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất, mở đường
cho nông nghiệp phát triển, tạo điều kiện thắng lợi cho công nghiệp hóa… Thắng
lợi đó là to lớn và căn bản… là có tính chất chiến lược”.44
Quả thật, trong hoàn cảnh Việt Nam sau thời
kỳ phong kiến và thuộc địa, cải cách ruộng đất để đem lại công bằng xã hội và
phát triển đất nước là cần thiết, vì thế ở miền Nam, các chính phủ của hai nền
Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hoà cũng thiết lập và thực hiện chính sách “cải cách
điền địa,” gia tăng thành phần tiểu điền chủ ở nông thôn bằng việc giúp cho tá
điền mua ruộng truất hữu của một số địa chủ hoặc cấp đất cho họ do đạo luật
“Người Cày Có Ruộng”. Tuy nhiên, cuộc cải cách điền địa ôn hòa ở miền Nam, nhất
là dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, vẫn còn mang tính chất nửa vời và có nhiều điều
sơ hở dễ để cho đối phương khai thác. Cuộc cải cách điền địa ở miền Nam sẽ được
đề cập tới trong chương 10 của sách này.
Như vậy, sai lầm của cải cách ruộng đất ở
miền Bắc không phải do nhu cầu cải cách mà do đường lối lãnh đạo và phương cách
thực hiện. Đúng như nhận định thẳng thắn nhưng rất chân thành của luật sư
Nguyễn Mạnh Tường, những sai lầm này “chỉ là biểu hiện điển hình và bi đát của
những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao Động… vì không những trong cải
cách ruộng đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực
khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đưa một số người trong quần chúng
đến cái chết thê thảm.” Ông Tường phân tích ba nguyên nhân trực tiếp gồm có:
“mơ hồ trong quan niệm về ta và địch, bất chấp pháp luật và bất chấp chuyên
môn.” Ông cũng luận giải về nguyên nhân sâu xa hơn là “sự lãnh đạo của ta thiếu
dân chủ, xa lìa quần chúng.” Cuối cùng, ông đã đề nghị phương hướng sửa chữa
các sai lầm về lãnh đạo là “một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ
thực sự.”
Những điều ông Tường nói về hậu quả của
lãnh đạo thiếu dân chủ của Đảng Lao Động cho ta thấy tình trạng xã hội đói
nghèo và lạc hậu trong những năm sau thắng lợi chống Pháp vẫn không có gì thay
đổi trong những năm sau thắng lợi chống Mỹ. Rõ ràng là trong suốt mấy chục năm
đảng cộng sản Việt Nam đã không học bài học lịch sử và không chịu tham gia vào
nhịp tiến hoá chung của nhân loại. Những điều ông Tường đề nghị về chế độ pháp
trị và dân chủ trong tinh thần “đóng góp ý kiến xây dựng” cách đây gần nửa thế
kỷ cũng không khác gì những đề nghị và đóng góp hiện thời của một số cựu đảng
viên cao cấp và những trí thức tiến bộ ở trong nước. Bởi vì chế độ pháp trị
chân chính và dân chủ thực sự thì ở nơi nào và thời nào cũng “đại đồng tiểu
dị”, tức là đều tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản của công dân,
chỉ khác nhau ở hình thức biểu hiện, tùy theo tính chất văn hoá và lịch
sử đặc thù của mỗi dân tộc. Ngay cả trong những nước còn duy trì chế độ quân
chủ lập hiến như Anh, Nhật, Hoà Lan, mọi quyền tự do của công dân cũng đều
được đảm bảo.
Từ cuối thập niên 1980, sau những biến động lịch sử làm tan rã chế độ cộng
sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đường lối lãnh đạo ở Việt Nam cũng đã có
nhiều thay đổi. Đảng và Nhà nước đã nhận ra hậu quả tai hại của chế độ độc tài
khép kín và chính sách kinh tế tập trung, do đó đã chủ trương “đổi mới kinh
tế”, mở cửa giao thiệp với nưức ngoài và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Gần
đây, trong đường lối xây dựng đất nước, giới lãnh đạo lại đưa thêm “dân chủ”
vào trong mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.” Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những âm hưởng yếu ớt của những lời kêu gọi bị
bóp nghẹt ở thời trước cũng như thời nay. Chỉ khác một điều là ngày nay những
lời kêu gọi và đòi hỏi về nhân quyền, dân. chủ và tự do mỗi ngày một nhiều hơn
và mạnh hơn, lại được sự hỗ trợ của các chính phủ và tổ chức quốc tế, thêm vào
đó là những lời tố cáo tham nhũng trên báo chí, những cuộc biểu tình của dân
chúng chống bộ máy hành chính quan liêu, và các viên chức lạm dụng quyền thế để
ức hiếp và bóc lột nhân dân..
Trước những yêu cầu bức xúc của nhân dân và
những đảng viên cấp tiến thức thời, trước những thay đổi không tránh khỏi trong
các quan hệ hợp tác và tham gia vào đời sống của thế giới văn minh dân chủ, các
nhà lãnh đạo ở Việt Nam một mặt tìm cách đáp ứng những đòi hỏi của tình thế,
một mặt lo duy trì và bảo vệ sự tồn tại của chế độ. Do sự khó khăn lúng túng
trong các quyết định về chính sách, Đảng và Nhà nước rất lo ngại cho tương lai
của chế độ nên đã có những phản ứng rất mạnh đối với những sáng kiến thay đổi
không phải do chính phủ chủ trương và kiểm soát. Mọi yêu cầu hay đề nghị từ bên
ngoài, ngay cả từ những cựu đảng viên vẫn có thiện chí đối với đảng, đều bị coi
là những “âm mưu diễn biến hoà bình của những thế lực thù địch” cần phải được
đập tan.
Làm thế nào xác định được đường lối và kế
hoạch hiện đại hóa và dân chủ hóa Việt Nam trong những điều kiện ổn định và
thích hợp với đặc tính văn hóa của dân tộc, làm thế nào có thể huy động được sự
đóng góp của mọi tầng lớp dân chúng trong nước, với sự hỗ trợ của các cộng đồng
ở ngoài nước, vào việc giải quyết những vấn đề quan tâm chung và thực hiện mục
tiêu chung, đó là những câu hỏi cần được giải đáp bằng rất nhiều thiện chí và
can đảm từ mọi phía, đặc biệt là những người làm chính sách hiện thời ở Việt
Nam. Bài học về những sai lầm trong quá khứ không những chỉ giúp tránh lặp lại
những sai lầm tương tự trong tương lai mà còn giúp cho việc xác định đúng hướng
đi và thiết lập được những chính sách có hiệu lực trong công cuộc phát triển đất
nước và bảo vệ tinh thần độc lập của dân tộc, nhất là trước nỗi đe dọa thường
trực của đầu óc bá quyền Trung Quốc.
_____
Ghi chú:
[1] Điều 7 trong bản
Tuyên cáo của Hội nghị Genève ngày 21.7.1954 với chữ ký của Anh, Nga (đồng chủ
tịch), Pháp, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Cam-bốt
và Lào. Hai nước tham dự là Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam không ký vào bản Tuyên
cáo này.
2 “Tô” hay địa tô là
tiền thuê ruộng đất mà người nông dân làm thuê (tá điền) phải trả cho chủ ruộng
(địa chủ) sau mỗi mùa gặt. Địa tô có thể được trả bằng một phần hoa màu thu
hoạch được hoặc bằng tiền mặt tính trên trị giá phần hoa màu phải nộp cho địa
chủ. Thông thường, địa tô được ấn định là 50 phần trăm, tức là hoa màu thu
hoạch sau mỗi vụ mùa được chia đều cho đôi bên, kẻ có của người có công. Địa
chủ cung cấp hạt giống, trâu bò và vật dụng canh tác, còn tá điền thì đóng góp
sức lao động. Sau cách mạng tháng Tám, địa tô được giảm xuống 25 phần trăm tức
là tá điền chỉ phải nộp cho địa chủ 25 phần trăm hoa màu thu họach được. “Tức”
là tiền lời tính trên số tiền mà người nông dân vay của chủ ruộng khi có chuyện
cần. Lãi suất được ấn định tùy theo sự thỏa thuận giữa đôi bên.
3 Dẫn bởi Trần Phương
,“The Land Reform” trong Vietnamese Studies: Pages of History 1945-1954
(Hanoi: 1966), 179. Vì không có điều kiện tham chiếu nguyên bản tiếng Việt của
tác giả, tôi đã phải dịch lại câu trích dẫn từ tiếng Anh, như vậy có thể không
hoàn toàn đúng với bản tiếng Việt của tác giả.
4 Đây là nói về chính
sách cải cách ruộng đất trước khi có cuộc di cư tị nạn năm 1954. Những đợt cải
cách “long trời lở đất” chỉ thực sự thi hành năm 1955 và 1956.
5 Điều 2 trong bản thỏa
hiệp đình chiến 20.7.1954 ấn định thời hạn hai bên rút quân về hai bên vĩ tuyến
17 là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Điều 14(d) ấn định rằng trong
thời hạn 300 ngày nói trên, dân chúng sống ở trong vùng kiểm soát của một bên
muốn dời sang vùng kiểm soát của bên kia sẽ được chính quyền địa phương cho
phép và giúp đỡ cho họ ra đi.
6 V.I. Lénine, La
Révolution Prolétarienne et le Renégat Kautsky (Paris: Éditions sociales,
1953), 92.
7 Trần Phương, 167.
8 Ibid., 172.
9 Bernard Fall, The
Vietminh Regime, 120-121.
10 Cựu Đại tá Quân đội
Nhân dân Bùi Tín thuật lại rằng trong chuyến đi Nga năm 1950, Hồ Chí Minh đã bị
Stalin chất vấn hai điều: tại sao giải tán Đảng CSĐD năm 1945? và tại sao chưa
tiến hành cải cách ruộng đất? (Thành Tín, Mặt Thật: Hồi Ký Chính Trị của Bùi
Tín, Turpin Press, 1994, 67-68).
11 Bernard Fall, The
Vietminh Regime, 121.
12 Ibid., 172-177. Tài liệu về việc quy định thành phần nhân dân
được trình bày tóm lược dựa theo bản địch Anh ngữ sắc lệnh 239/B.TLP. Cũng như
trường hợp đã nói đến ở chú thích số 3 trên đây, những chỗ dịch từ bản tiếng
Anh chắc chắn không thể giống với bản gốc tiếng Việt.
13 Ibid., 34.
14 Cứu Quốc, ngày 18.9.1953. Dẫn bởi Bemard Fall, ibid., 34.
15 Thành Tín, 37-38. Bà
Nguyễn Thị Năm còn thường được gọi là bà Cát Hanh Long, tức là tên thương hiệu
do hai vợ chồng bà thành lập. Ông Cát Hanh Long qua đời trước cách mạng. Chuyện
đấu tố ba lần mới xử bắn được bà “Mẹ Chiến sĩ” này cũng được George Boudarel mô
tả trong Cent Fleurs Ecloses dans la Nuit du Vietnam (Paris: Jacques
Bertoin, 1991), 174-175. Một nhân chứng khác, Đinh Xuân cầu, từ miền Bắc di cư
vào Nam năm 1954, thuật lại chuyện này trong cuốn Bên Kia Bến Hải.
16 Thành Tín, 58. Một tác
giả khác, Nguyễn Văn Trấn, cũng ghi rằng trong bản báo cáo chính trị ông Hồ Chí
Minh đọc trước Đại hội Đảng kỳ II có câu: “Về lý luận, Đảng Lao Động Việt Nam…
lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.” Ông Trấn nhận xét thêm rằng câu
“tư tưởng Mao Trạch Đông làm tư tưởng chỉ đạo cho đảng ta” vẫn có trong bản báo
cáo chính trị in sau Đại hội II, nhưng theo tài liệu mới in gần đây thì tư
tưởng ấy trốn mất (sic)” cho nên ông không thể ghi lại cho thật chính xác được.
(Nguyễn Văn Trân, Viết cho Mẹ và Quốc Hội. California: Văn Nghệ, 1995,
150).
17 Vũ ThưHiên, Đêm
Giữa Ban Ngày (California: Văn Nghệ, 1997), 158-159.
18 Georges Boudarel,
151-152.
19 Nguyễn Văn Trân, 173.
20 Doãn Quốc Sỹ, Khu
Rừng Lau.
21 Nguyễn Vân Trấn, 165.
22 Thành Tín, 133.
23 Hai thí dụ điển hình
của việc chọn lựa này là Thiếu tướng Lê Nam Thắng, Tư lệnh Quân khu IV, sau làm
Tư lệnh Quân khu Thủ đô, và Đại tướng Chu Huy Mân, Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị. Ông Bùi Tín kể cho tôi nghe rằng hai ông đều xuất thân từ gốc bần cố nông.
Tướng Lê Nam Thắng là người học chữ quốc ngữ ở trong tù và được nhiều người
biết về chữ ký nguệch ngoạc rất lớn của ông trên các văn kiện. Còn Tướng Chu
Huy Mân cùng với tướng Văn Tiến Dũng, vì mang tiếng tham nhũng, đã không được
bầu trong số 72 đại diện được cử đi dự Hội nghị Toàn quân năm 1980. Do việc
tướng Nguyễn Chí Thanh thình lình tử nạn, tướng Văn Tiến Dũng, xếp hạng thứ 13,
mới được đôn lên để đi thay.
24 Nguyễn Văn Trấn, 168.
Cũng trong sách này (tr. 166), ông Trấn còn mỉa mai gọi ông Hồ Viết Thắng, chỉ
huy trực tiếp của mình, là “ấu chúa” của đoàn cố vấn Trung Quốc.
25 Ibid., 269-270.
26 Theo Lê Mậu Hãn (chủ
biên), Đại Cương Lịch Sử Việt nam, tập III, 1945- 2000 (Hà Nội: NXB Giáo
Dục, 2001), 137-138: “Tại kỳ họp thứ 4 (3-1955) Quốc Hội thông qua nghị quyết
tán thành một số điểm bổ sung của chính phủ về cải cách ruộng đất, nhằm tạo cơ
sở pháp lí cho việc triển khai cải cách ruộng đất trên quy mô lớn ở miền
Bắc trong điều kiện mới… Ngày 20.7.1956, đợt V của cải cách ruộng đất đã kết
thúc.”
27 Dẫn bởi luật sư Nguyễn
Mạnh Tường trong bài diễn văn trước hội nghị của Mặt Trận Tổ Quốc ngày
30.10.1956 ở Hà Nội. Đối chiếu với khẩu hiệu của Đảng, ông Tường nhận định:
“Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: thà mười địch sót còn hơn một người bị
kết án oan.” Nguyên văn bài này được in lại trong Trăm Hoa Đua Nở Trên
Đất Bắc của Hoàng văn Chí (Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, Sài gòn, 1959.)
Sau bài diễn văn này, L.s. Nguyễn Mạnh Tường bị tước hết mọi chức vụ nghề
nghiệp và lột hết mọi danh vị trong các tổ chức. Xem Phụ Lục c.
28 Nguyễn Văn Trấn, 266.
29 Thơ Tố Hữu: Giết, giết
nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng Thờ Mao Chủ
tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt!
và Xuân Diệu:
Anh em ơi! quyết chung lòng,
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù.
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống đoạ đầy chết thôi.
30 Những Sự Kiện Lịch Sử
Đảng, tập IV về “Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc Việt
Nam: 1954-1975 (Hà Nội: NXB Thông Tin Lý Luận, 1982), 88-89.
31 Cao Văn Lượng, chủ
biên, Lịch Sử Việt Nam 1954-1965 (Hà Nội: NXB Khoa Học Xã hội, 1995),
32.
32 Ibid.
33 Hoàng Văn Hoan, Giọt
Nước Trong Biển Cả (Portland, OR: NXB Tìm Hiểu Lịch Sử, 1991), 361.
34 Hồ Chí Minh Toàn Tập (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 1995), 236.
35 Bemard Fall, The
Two Vietnams, 156.
36 Nguyên văn bản báo cáo
này được đăng trên nhật báo Nhân Dân, ngày 31.10.1956 dưới nhan đề “Bài
Nói chuyện của Đồng chí Võ Nguyên Giáp”.
37 Fall, The Two Vietnams, 157.
38 H. c. Taussig, “Land Reform Abuses,” South China Morning Post (Hong
Kong), 28.11.1956. Cũng xem Georges Chaffard, “Le gouvernement nord emamien
doit affronter à son tour le mécontentement populaire,” Le Monde Paris),
5.12. 1956. Dẫn bởi Fall, The Two Vietnams, 157.
39 Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận về tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước và một số vấn đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954-1975, ngày
25.5.1994.
40 Tài liệu về 5 đợt CCRĐ được thuật theo Cao Văn Lượng, chủ biên, 30- 31
41 Ibid., 33-34.
42 Fall, The Two
Vietnams, 156.
43 Những con số của Tibor
Mende, Võ Nhân Trí, báo Time, và Joseph Buttinger đều lấy từ Georges
Boudarel, trang -203-204 và chú thích số 193. Ông Võ Nhân Trí, hiện ở Pháp, cho
tôi biết thêm rằng bản báo cáo về số người chết oan trong CCRĐ là do Đảng đoàn
Bộ Nội vụ trình lên ủy ban Trung Ương Đảng. Cuốn sách của ông hoàn tất năm 1962
nhưng bị Ban Tư tưởng Trung ương bắt sửa đi sửa lại nhiều lần đến 1995 mới chấp
thuận cho xuất bản. Việc phát hành lại gặp khó khăn vì có báo cáo rằng cuốn
sách tiết lộ nhiều tin tức về các cơ sở công nghiệp rất dễ cho máy bay Mĩ dội
bom tàn phá. Sau này, khi viết cuốn Vietnam’s Economic Policy since 1975,
ông mới được thực sự tự do viết ra những nhận xét trung thực của mình.
44 Những Sự Kiện Lịch Sử
Đảng, tập IV. Kết luận này mâu thuẫn với kết luận của Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng như đã dẫn ở bên trên.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog Ba Sàm 2013
--------------------------------
BON-PHUONG’S BLOG
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH -
TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Wednesday, 30 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH -
TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Thursday, 31 January 2013
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH -
TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 1 : QUỐC GIA & CỘNG SẢN (GS Lê Xuân
Khoa - Blog Ba Sàm) Friday, 1 February 2013
VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH -
TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / CHƯƠNG 2 : NHỮNG YẾU TỐ BÊN NGOÀI (GS Lê Xuân
Khoa - Blog Ba Sàm) Monday, 4 February
2013
No comments:
Post a Comment