Monday, 25 February 2013

ÚT BẠCH LAN - HÀ BỬU TÂN BẤT TỬ VỚI "XUÂN ĐẤT KHÁCH" (Lê Phước - RFI)




Lê Phước  -   RFI
Thứ bảy 23 Tháng Hai 2013

Dù mê hay không mê tài tử cải lương, thì người Việt xa quê vẫn ấm lòng khi được nghe mấy câu vọng cổ. Cứ vào dịp Tết nguyên đán, thì nhu cầu được sưởi ấm bằng điệu vọng cổ du dương của bà con lại trỗi dậy. Trong cái không khí ngày Tết ấy, bài được thích nhất có lẽ là bài “Xuân Đất Khách”, một bài ca hoài niệm cố hương, không ướt át bi lụy mà đủ đưa con tim người nghe vào trời thương biển nhớ.
Ngoài nghiệp cầm viết, ông còn đeo mang cái nghiệp cầm đàn. Nếu trong nghề soạn giả ông được tôn xưng là “Vua”, thì trong nghề đàn, dân mê cổ nhạc ai mà không biết đến danh cầm Bảy Bá với tuyệt cú đàn tranh độc nhất vô nhị, ngón đàn đã đưa ông vào danh sách “Tam hùng” trong làng đàn cổ nhạc cùng với hai danh cầm Văn Vĩ và Năm Cơ.


Tản mạn về tác giả bài Xuân đất khách

Tay đàn thật ra là một thế mạnh đưa Viễn Châu đến sự thành công trong soạn lời vọng cổ, bởi vì một trong những con ách chủ bài giúp những bài vọng cổ của ông được đông đảo giới mộ điệu yêu mến, đó chính là sự đơn giản trong lời ca và sự “vào khuôn” trong cách đặt câu sắp chữ. Lời văn trong bài vọng cổ của Viễn Châu thường nằm gọn trong khuôn, với cách bố trí âm bằng trắc rất phù hợp tạo sự dễ dàng cho người ca, giúp người ca có thể tựa vào đó để nhảy múa trên dây đàn.

Không chỉ có thế, Viễn Châu còn là bậc thầy “đo ni đóng giày” bởi ông tùy theo giọng ca và cách ca của từng nghệ sĩ mà đặt lời văn phù hợp, giúp cho người ca có thể phát huy được thế mạnh của mình để chinh phục khán giả. Bởi vậy mà, hễ bài ca ông soạn riêng cho một nghệ sĩ ca, thì nghệ sĩ khác dù cũng thuộc hàng cây đa cây đề, cũng không thể hiện được bài đó hay bằng người mà bài ca của Viễn Châu nhắm đến.

Bài ca theo kiểu đo ni đóng giày của Viễn Châu đã đưa không biết bao nhiêu nghệ sĩ trở nên nổi tiếng. Điểm lại những nghệ sĩ bậc nhất của thế hệ vàng, thử hỏi có mấy ai “thoát khỏi tay” của Viễn Châu: Út Trà Ôn-Tình Anh Bán Chiếu, Út Bạch Lan-Lan và Điệp, Diệu Hiền-Tần Quỳnh Khóc Bạn, Lệ Thủy-Cô gái bán sầu riêng, Mỹ Châu-Hòn Vọng Phu, Minh Cảnh-Tu là cội phúc, Thanh Sang-Người đánh đàn trên Bắc Mỹ Thuận, Minh Vương-Lòng dạ đàn bà ….
Vừa rồi, các nghệ sĩ từng được bài ca Viễn Châu chấp cánh đã cùng nhau tổ chức một đêm cổ nhạc tại quê hương Trà Vinh của ông. Trên sân khấu bé nhỏ ngoài trời đêm ấy đã xuất hiện hầu như tất cả những nghệ sĩ bậc nhất của thế hệ vàng và những nghệ sĩ hàng đầu trong các thế hệ kế cận.

Có người hỏi vui : Mời một lần mà nhiều nghệ sĩ gạo cội như thế thì chắc phải bán ba cái chung cư mới đủ trả tiền thù lao ? Thế nhưng, tất cả những nghệ sĩ này đều tình nguyện tham gia hát không nhận thù lao, bởi vì họ hát cho chính người thầy thân yêu của họ. Chỉ nói cái công Viễn Châu chấp cánh cho những nghệ sĩ này thôi thì cải lương biết lấy gì đền ơn ông cho vừa, cho đủ !


Xuân đất khách, một tuyệt phẩm của Viễn Châu

Nếu phải xếp hạng trong gia tài hơn 2000 bài vọng cổ của Viễn Châu, thì Xuân đất khách quả thật phải được lọt vào « tốp ten ». Còn nếu nói về những bài vọng cổ viết về tâm sự người xa xứ, thì Xuân đất khách của Viễn Châu phải được xếp số 1, về tính văn học và tính súc tích của lời ca, về sức hấp dẫn đối với người nghe và về sức sống của nó trong thời đại.
Chúng ta biết rằng một trong những nét đặc trưng trong phong cách Viễn Châu đó là ca từ của ông rất vô khuôn và rất dễ nhớ. Bài Xuân đất khách đã thể hiện được nét đặc trưng này. Chính cũng vì thế mà những người dạy và người học ca vọng cổ thường chọn sử dụng bài của ông. Xuân đất khách cũng vậy, đây là một bài hát có ca từ đẹp mà lại còn dễ cho người ca trong cách sắp chữ, nên người ca và người nghe đều có thể thể hiện và theo dõi dễ dàng.

Ở đây có một điểm đáng chú ý, đó là : Vọng cổ là tự sự, tức một bài vọng cổ phải có cốt truyện rõ ràng, người nghệ sĩ thể hiện bài ca tức là đang kể lại cho người nghe một câu chuyện gì đó, bởi vậy mà người ca cũng dễ nhớ và người nghe cũng dễ theo dõi, không bị lan man.

Bài Xuân đất khách dù có chủ đề rõ ràng là thể hiện nỗi nhớ quê hương, nhưng nó lại không hề theo trình tự của một câu chuyện cụ thể, tức không có thứ tự tình tiết câu chuyện, mà chỉ là sự thố lộ tâm tình của người nhớ quê hương, tức là người ca khó mà dựa vào một lô gích gì đó để nhớ bài ca, còn người nghe thì cũng không thể bám vào thứ tự các tình tiết cốt truyện để theo dõi. Thế mà lạ thay, Xuân đất khách lại có lời văn rất dễ nhớ, người ca rất dễ thuộc, người nghe rất dễ theo dõi ! Đó chính là cái thần tình của Viễn Châu.

Cũng đúng thôi, vì ông không dựa vào cái lô gích kể chuyện chung chung mà là vào “lô gích” tình cảm, mà « lô gích » tình cảm thì lại không có lô gích. Nói cách khác Viễn Châu đã đứng trong cái tình cảm chung nhất của người Việt xa quê để viết Xuân đất khách bằng việc gợi lên những sự vật mà khi còn sống ở quê hương thì người ta thường thấy nó bình thường, còn khi xa xứ thì bỗng nhiên thấy nhớ thương da diết, như hình ảnh của những dưa hấu Gò Công, bưởi Biên Hòa, rượu bà Điểm, cành mai nở ngày Tết …

Một bí quyết cho sự thành công của Viễn Châu như ông đã thú nhận, đó là khi viết mỗi bài hát ông đều cố gắng hóa thân thành nhân vật trong bài hát đó. Và như vậy thì Viễn Châu đã hóa thân thật sự thành công trong bài Xuân đất khách ! Một bí quyết mà theo ông thì « chả có gì là bí quyết », nhưng không phải soạn giả nào làm cũng được.

Xuân đất khách là một bài vọng cổ rất ăn khách, nhất là đối với nghệ sĩ lưu diễn ở nước ngoài mỗi dịp tết Nguyên Đán. Nội dung bài ca này không quá bi ai mà chỉ là nỗi lòng nhớ quê hương da diết, lời văn bài ca gợi nhớ đến những điều gần gũi thân thương nơi quê cha đất tổ, lại không có mang yếu tố tôn giáo hay chính trị, bởi vậy ai nghe cũng được, nghe xong rồi thích, thích xong rồi nhớ, nhớ xong rồi lại tự ca trong lòng mỗi lúc xuân về.

Ca không phải để làm cho ngày xuân trở nên buồn bã, mà là để nhớ đến những gì thân thương mộc mạc nơi chôn nhau cắt rốn, để lắng đọng tâm tư sau một năm bôn ba làm lụng, để tạm gát lại mọi bồn bề của của sống mà nhớ về cội nguồn gốc rễ, bởi: “Cây có gốc mới nở cành xanh cội, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”.


Sầu nữ Út Bạch Lan “sầu” cùng Xuân đất khách

Út Bạch Lan được xem là người thể hiện thành công nhất bài Xuân đất khách. Út Bạch Lan được mệnh danh là “Nữ vương sầu nữ”, và đến giờ này chưa ai thay thế cái vương hiệu đó của cô. Vào những thập niên thập niên 1950-1960, Út Bạch Lan và Thanh Hương hợp cùng với đàn anh Út Trà Ôn đã trở thành những giọng ca vàng ăn khách nhất trên đĩa hát. Út Bạch Lan là người có số lượng vai diễn và bài ca đóng cặp với Út Trà Ôn trên các hãng đĩa nhiều nhất của thế kỷ trước.

Còn nếu như phải bầu chọn cho những cặp đào kép thành công nhất, thì có lẽ xếp hàng đầu không thể nào thiếu được cặp đào kép Út Trà Ôn-Út Bạch Lan. Chưa hết, Út Bạch Lan được xem là người đã cùng với Út Trà Ôn mở đường đưa bản vọng cổ nhịp 32 lên tới đỉnh cao trong hệ thống bài bản cải lương.

Bàn về chất giọng, ta thấy Út Bạch Lan có chất giọng kim pha thổ (kim nhiều thổ ít) nên giọng trong trẻo, lảnh lót có pha chút trầm buồn. Cô đã biết khai thác triệt để thế mạnh này để đạt đến danh hiệu “Nữ vương sầu nữ”. Thế nhưng, chỉ có giọng ca thôi còn chưa đủ để đạt đến vương hiệu đó, bởi ngoài giọng ca thiên phú thì kỹ thuật ca của Út Bạch Lan cũng thuộc hàng thượng thừa.

Bộ nhịp của cô thì khỏi chê. Cách hành văn sắp chữ của cô rất điêu luyện. Cô ca luyến láy một cách thần tình : luyến láy đúng nơi đúng chỗ và vừa đủ, không bị thô, luyến láy theo kiểu « đứt dây đờn ». Cách điều hơi của Út Bạch Lan cũng đáng nể : Nghe Út Bạch Lan ca, ta không thấy cô phải ráng hơi, cô ca như nói, ca rất tự nhiên. Đặc biệt Út Bạch Lan có cách nhấn dấu sắc lửng rất hay, vút lên rồi nhẹ nhàng rơi rơi một các lả lướt.

Tuy nhiên nét đặc trưng nhất của Út Bạch Lan mà đến giờ này chưa thấy có ai ca giống và ca hay như vậy, đó là cách cô xuống xề ở câu 5 và câu 6 rất thấp, rất trầm, cô phát huy hết chất đồng trong giọng ca của mình và cô đã tạo ra cách xuống xề hay đến mức mà người nghe chữ cô xuống xề như hòa tan vào tiếng đàn, như biến mất trong chữ xề của cung đàn, nói chung là nghe là biết ngay đó là cách xuống xề thần sầu của Út Bạch Lan.

Những năm gần đây, Út Bạch Lan có nhận một đệ tử chân truyền đó là nghệ sĩ Phương Hồng Thủy. Và đến hiện tại, có thể nói lối ca của Phương Hồng Thủy đã bị ảnh hưởng rất nhiều từ thầy mình, nhất là lối xuống xề nói trên.

Nói về bài Xuân đất khách, thì những cái gì đặt trưng nhất trong giọng ca Út Bạch Lan đã được cô gói gọn trong bài ca này: độ sầu đến « quỷ khốc thần sầu », độ mùi đến mùi mẫn, lối ca điêu luyện, cách hành văn sắp chữ độc đáo, lối xuống xề tuyệt cú mèo. Có thể nói rằng, nghe Út Bạch Lan ca Xuân đất khách, người xa quê không thể nào cầm được nước mắt mà chỉ muốn mọc ngay đôi cánh để bay về với quê hương, còn người trong nước mà nghe cô hát bài này thì ắt hẳn bắt đầu lo sợ cái cảnh làm thân xa xứ.

Xuân đất khách là một bài hát hay, nên có rất nhiều nữ nghệ sĩ bậc nhất của thế hệ vàng thể hiện, nhưng để đạt được độ mùi như Út Bạch Lan thì quả thật là chưa có ai. Bài Xuân đất khách, có thể nói rằng, đó là một trong những minh chứng cho ‘‘sự trị vì” của Út Bạch Lan trong vương quốc “Sầu nữ” của sân khấu cải lương. Hà Bửu Tân, tên tuổi bất tử cùng Xuân đất khách.

Nhìn sang phía nam nghệ sĩ, ta thấy cũng có không ít người thể hiện bài Xuân đất khách. Thế nhưng, công tâm mà nói thì đến giờ phút này, người thể hiện thành công nhất có lẽ là cố nghệ sĩ Hà Bửu Tân. Đây là một nghệ sĩ khá đặt biệt của sân khấu cải lương, đặc biệt không chỉ vì tài ca vọng cổ mà còn vì số phận “tài hoa yểu mệnh” của anh.

Khán giả ngày nay ít ai còn nhớ đến Hà Bửu Tân bởi anh đã giả biệt thế gian vào những năm 1970, ở cái tuổi ngoài hai mươi, vào lúc mà giọng ca và tài năng của anh đang hồi sung mãn nhất. Làn hơi của Hà Bửu Tân có nội lực rất mạnh, đài từ rõ ràng, ca đúng với chuẩn mực «tròn vành rõ chữ ». Anh ca không lạng bẻ mà ca rất tự nhiên, rất nhẹ nhàng, khiến người nghe không cảm thấy anh ráng hơi bởi thế cũng cảm thấy nhẹ nhàng.

Đặc biệt hơn hết là cách nhã chữ rất riêng của anh, một cách nhã chữ nói chung là « rất Hà Bửu Tân”. Nếu bên nữ nghệ sĩ, Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga được xem là người có lối nhã chữ sang trọng, thì bên phía nam nghệ sĩ ta thấy có Hà Bửu Tân. Làn giọng của anh cũng rất sang trọng diễm tình. Vì thế, có thể nói, Hà Bửu Tân là nam nghệ sĩ cải lương có giọng ca và lối ca sang trọng và diễm tình “xưa nay hiếm”.

Nói về kỹ thuật ca, Hà Bửu Tân được dân trong nghề cho là có bộ nhịp rất vững. Bởi thế anh mặc sức tung hoành trong bài ca với một sự điêu luyện thượng thừa. Ở tuổi của Hà Bửu Tân mà có được bộ nhịp thượng thừa như vậy thì cũng quả thật là “Xưa nay hiếm”. Đặc biệt là lối sắp chữ của anh, anh sắp chữ trong lòng câu, và xuống song lang « như để », nghe mà sướng lỗ tai.

Nhịp nhàng điêu luyện, đài từ rõ ràng, giọng ca diễm tình và sang trọng… tất cả đã tạo cho sân khấu cải lương một Hà Bửu Tân có một không hai, một Hà Bửu Tân mà người nghe chỉ nghe một lần cũng đã thấy như là « đã mê tự lâu rồi », một giọng ca và một lối ca mang đến cho người nghe cảm giác nhẹ nhàng, êm dịu, cho người nghe được thưởng thức nghệ thuật nhảy múa trên dây đàn của người nghệ sĩ.

Nói về độ mùi, giọng ca Hà Bửu Tân có độ thẩm thấu cao, thể hiện chất mùi của bài hát rất tuyệt, khiến người nghe bị buồn lây hồi nào mà không biết. Tuy nhiên, giọng ca Hà Bửu Tân đầy nam tính và đầy nội lực, trầm buồn nhưng không tạo cảm giác bi lụy. Đó là một lợi thế để anh tạo dấu ấn riêng trong bài Xuân đất khách. Nếu như nghe Út Bạch Lan ca Xuân đất khách mà người nghe phải sa nước mắt và muốn mọc ngay đôi cánh để bay về với quê hương, thì khi nghe Hà Bửu Tân ca bài này ta sẽ cảm thấy có một nỗi buồn man mác đang len lỏi vào tâm trí, nó không đến độ khiến cho nước mắt phải sa, nhưng đủ để nỗi buồn kia thấm khắp cùng thân thể, giúp tâm trí mọc thêm đôi cánh để bay vào thế giới suy tư và hồi tưởng. Đó là dấu ấn “vô tiền khoán hậu” của Hà Bửu Tân trong bài Xuân đất khách.

Nói đến những điều « xưa nay hiếm » trên, ta lại càng thêm nuối tiếc vô cùng cho sân khấu cải lương Nam bộ, bởi vì sự ra đi của Hà Bửu Tân thật sự là một mất mát vô cùng to lớn cho sân khấu cải lương, và nhất là cho bài vọng cổ. Hà Bửu Tân mất sớm, nên hiện tại người ta cũng chỉ có thể nghe được giọng ca của anh trong trong vài đĩa cải lương, và hai bài vọng cổ là Xuân đất khách và Hạng Võ Sở Bá Vương, cả hai bài này đều do soạn giả Viễn Châu sáng tác. Tuy số lượng còn sót lại chỉ vỏn vẹn có hai bài vọng cổ như vậy, nhưng bấy nhiêu thôi cũng đủ để Hà Bửu Tân khẳng định được tài năng ca vọng cổ của mình. Đặc biệt là trong bài Xuân đất khách, Hà Bửu Tân đã thể hiện được cái tầm thượng thừa trong ca vọng cổ.
Thời gian thắm thoát trôi qua, cái tên Hà Bửu Tân đã dần phai nhạt trong làng sân khấu cải lương, thế hệ trẻ mê cải lương ngày nay có lẽ cũng chẳng có nhiều người biết đến anh. Thế nhưng, nếu nhắc đến bài Xuân đất khách của soạn giả Viễn Châu, thì không thể không nhắc đến Hà Bửu Tân bên cánh nam nghệ sĩ, và Út Bạch Lan bên cánh nữ nghệ sĩ. Nói cách khác, Út bạch Lan-Hà Bửu Tân đã trở nên bất tử cùng với bài Xuân đất khách của soạn giả Viễn Châu.

Khi Hà Bửu Tân chập những đi hát hồi đầu những năm 1970, thì Út Bạch Lan khi ấy đã tiếng tăm lừng lẫy. Thế nhưng, giữa bậc tiền bối Út Bạch Lan và người hậu bối Hà Bửu Tân đã cùng để đời với bài Xuân đất khách. Vì sao thế ? Câu trả lời có thể là : cả hai có những nét chung đưa đến sự thành công trong nghệ thuật ca vọng cổ. Những nét chung đó chính là : cả hai đều có giọng ca thiên phú rất mượt mà, cả hai đều là bậc thầy trong cách sắp chữ trong lòng bản, cả hai đều có nhịp nhàng điêu luyện, và đặc biệt là cả hai có một lối ca “hoa lá cành” trong cái chuẩn mực “chân phương hoa lá” của bài vọng cổ.

Nói cách khác, Út Bạch Lan và Hà Bửu Tân đều ca lã lướt, lối luyến láy thần sầu, thế nhưng, họ lả lướt mà không quá điệu đà, luyến láy mà không quá trớn, tức là luyến láy vừa đủ để thể hiện bài ca chứ không phải để khoe giọng, để khoe tài năng hay để khẳng định đẳng cấp. Bên cạnh đó, Út Bạch Lan và Hà Bửu Tân lại ca rất “chân phương”, tức là ca như nói, có sao ca vậy, không bao giờ tạo ra cảm giác bị ráng hơi, hoặc chẳng khi nào cố tình lên gân khoe giọng.

Với tất cả những điều trên, ta có thể khẳng định rằng, “chân phương hoa lá” vẫn là « cái chuẩn rất chuẩn » của bài vọng cổ. Nói « chân phương hoa lá » chỉ có hai vế bốn từ, nhưng để thể hiện được một trong hai vế bốn từ đó cho đúng, cho đủ, thì quả là không phải chuyện dễ dàng. Và Út Bạch Lan và Hà Bửu Tân đã thể hiện được tất cả những điều « không phải chuyện dễ dàng » đó trong bài Xuân đất khách.






No comments:

Post a Comment

View My Stats