VIỆT NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH -
TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ
GS Lê Xuân Khoa
Posted by basamnews on
02/02/2013
Ưu điểm lớn nhất của Việt Minh là khả năng tuyên truyền vận động quần
chúng.53 Việt Minh đã khéo che giấu được lai lịch cộng
sản dưới hình thức một mặt trận đoàn kết toàn dân với mục tiêu duy nhất là
chống Pháp để đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ có thành
tích chống cả Pháp lẫn Nhật, nhất là biết khai thác tối đa các quan hệ hợp tác
với OSS, chủ thuyết Roosevelt và triển vọng hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Minh đã dễ
dàng đem lại cho mọi người niềm tin tưởng là có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đó cũng
là một trong những lý do khiến chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống lại
Việt Minh và vua Bảo Đại sẵn sàng thoái vị.
*
*
Lịch sử Việt Nam vào nửa sau của thế kỷ XX
là lịch sử của đất nước bị chia đôi và bốn cuộc chiến tranh trước và sau sự
chia cắt ấy. Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống Quốc Gia
Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt trận Việt Minh) lãnh đạo
(1945-1954). Cuộc chiến thứ nhì là nội chiến giữa miền Bắc cộng sản và miền Nam
quốc gia (1956-1975) với sự tham gia của hai khối đối đầu trong cuộc Chiến
tranh Lạnh: Hoa Kỳ chiến đấu sát cánh với miền Nam, Liên Xô và Trung Quốc hậu
thuẫn cho miền Bắc. Hai cuộc chiến tiếp theo xảy ra giữa Việt Nam và hai đồng
minh cộng sản: Trung Quốc (tháng Hai 1979) và Cam-pu-chia (1979-1989).
Đây không phải là lần đầu đất nước bị chia
đôi và có nội chiến. Vào thế kỷ thứ XVI, sau khi Mạc Đăng Dung giết vua Lê
Chiêu Tông rồi lập ra triều đại nhà Mạc, một số cận thần nhà Lễ chạy vào Thanh
Hóa lập người con út của Chiêu Tông lên kế vị và mở cuộc chiến tranh chống nhà
Mạc. Cuộc chiến khôi phục nhà Lê kéo dài 52 năm (1540-1592) mới đạt được thắng
lợi. Các sử gia gọi giai đoạn
này là chiến tranh giữa Nam triều và Bắc triều, với lằn ranh không rõ rệt là
Thanh Hóa (thời đó lãnh thổ miền Nam chỉ mới xuống đến Quảng Nam, sát với Chiêm
Thành.) Giới cận thần của nhà Lê lại chia làm hai phe họ Trịnh và họ Nguyễn với
thực quyền trong tay họ Trịnh, vì vậy có danh xưng là Chúa Trịnh. Từ 1558, họ
Nguyễn bắt đầu vào phía Nam lập nghiệp và đến 1627 thì cắt đứt liên hệ với họ
Trịnh. Giang sơn của Chúa Nguyễn bắt đầu thành lập, lấy sông Gianh tỉnh Quảng
Bình làm giới tuyến. Hai miền từ nay được gọi là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Cuộc
nội chiến lần này kéo dài 45 năm, tổng cộng bảy trận đánh lớn trong đó sáu trận
do miền Bắc tấn công. Kết quả bất phân thắng bại, chúa Trịnh rút quân luôn về
Bắc năm 1672. Đất nước tiếp tục chia đôi cho đến khi Nguyễn Huệ nổi lên đánh
chúa Nguyễn, diệt nhà Trịnh, lấy đất Bắc và lập ra triều đại Tây Sơn năm 1788.
Việc hiệp định Genève chia đôi Việt Nam năm
1954 đưa đến cuộc di cư tị nạn của gần một triệu người từ Bắc vào Nam bắt nguồn
từ những nguyên do sâu xa và phức tạp. Tìm hiểu những nguyên do đó sẽ giúp cho
ta có một cái nhìn đầy đủ, khách quan và công bình về giai đoạn lịch sử này của
dân tộc. Tổng hợp các yếu tố trong và ngoài nước, ta có thể ghi nhận ba nguyên
nhân gốc rễ (root causes) của tị nạn 1954:
1. Cuộc tranh chấp giữa hai phe quốc gia và
cộng sản trong quá trình đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc từ những năm cuối
thập niên 1920;
2. Những yếu tố bên ngoài gồm sự bội ước
của tướng lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa, chủ nghĩa thực dân lỗi thời của Pháp,
và chính sách bất nhất của Hoa Kỳ đối với Đông Dương trong cuộc chiến tranh
1945-1954; và
3. Hậu quả của chính sách “cải cách ruộng
đất” và phong trào “chỉnh huấn ” được chuẩn bị và phát động từ trước 1954 nhằm
tiêu diệt giới địa chủ và khủng bố trí thức ở miền Bắc một cách có hệ thống.
Chương 1: Quốc gia và Cộng sản
Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm
lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được tiếp
tục ngay sau khi Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam bằng hòa ước Patenôtre
năm 1884, gần nửa thế kỷ trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập. Phong
trào cần Vương dưới sự lãnh đạo của Vua Hàm Nghi từ 1885 vẫn hoạt động ngay cả sau
khi nhà vua bị Pháp bắt được và đầy sang Algérie năm 1888. Hai cuộc khởi nghĩa
khác do Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đình Phùng chỉ huy bị dẹp tan trước cuối thế
kỷ, nhưng cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám đã kéo dài được 30 năm cho đến khi
ông bị giết năm 1913. Khi đã thiết lập được guồng máy thống trị vững vàng,
chính quyền thực dân Pháp vẫn phải đương đầu với các phong trào giải phóng dân
tộc dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu kiệt xuất như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Hoàng Thân Cường Để, Trần Cao Vân và Nguyễn Thượng Hiền. Một trong những
phong trào này được cầm đầu bởi Hoàng đế Duy Tân, mười sáu tuổi, do chính người
Pháp đưa lên ngôi từ năm lên bảy thay cho vua cha là Thành Thái bị Pháp đầy
sang đảo Réunion vì âm mưu chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1916, vua
Duy Tân bị Pháp bắt và cũng bị lưu đày ở đảo Réunion. Những tổ chức quốc gia
chống Pháp sau đó đều phát xuất từ giới trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục
Pháp, đáng kể nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) ở miền Bắc, hai giáo phái
Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam cùng với các nhóm chính tri và báo chí của một số
trí thức du học ở Pháp về.
Hồ Chí Minh, người cộng sản Việt Nam đầu
tiên, sang Pháp năm 1911 với tên gốc là Nguyễn Tất Thành, sau đó sống lưu vong
ở nhiều nước Phi châu, Á châu, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Anh quốc. Trong những lá thư
viết về Pháp cho bạn của thân phụ ông là Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành
thường phàn nàn về đời sống cực nhọc của mình nhưng vẫn nuôi dưỡng tinh thần
yêu nước. Năm 1917, ông trở lại Pháp và từ đó chuyên tâm vào hoạt động chính
trị với các đảng viên Xã Hội. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành, khi đó đã đổi tên là
Nguyễn Ái Quốc, là một trong những sáng lập viên của đảng Cộng Sản Pháp trong
một kỳ đại hội do đảng Xã Hội triệu tập. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc được đưa sang
Nga để làm việc tại Ban Phương Đông của tổ chức Cộng Sản Quốc Tế (Comintern)
đồng thời được huấn luyện về tổ chức và kỹ thuật cách mạng. Cuối năm 1924, ông
được gửi sang Trung Hoa1 để làm việc cho hãng thông tấn Xô-viết ROSTA dưới sự
điều động của Mikhail Borodin, trưởng đoàn cố vấn Comintem cho tổ chức Quốc Dân
Đảng của Tôn Dật Tiên. Để che mắt mạng lưới mật thám Pháp, Nguyễn Ái Quốc cải
danh là Lý Thụy và những bản báo cáo của ông gửi về Nga được ký dưới bút hiệu
Nilovskii. Hơn nửa năm sau, ông đã kết hợp được với nhóm Tâm Tâm Xã của Lê
Quang Đạt, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu để thành lập nhóm Việt Nam
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNTNCM). Nhóm này xuất bản tờ báo Thanh Niên
và mở trường huấn luyện cách mạng giải phóng dân tộc, giảng dạy chủ nghĩa Tam
Dân của Tôn Dật Tiên cùng với chủ thuyết cách mạng thế giới của Lê-Nin. Nhờ
liên hệ với những phần tử ái quốc từ Việt Nam chạy sang Trung Hoa trong thời
gian này và những cơ hội về sau, Nguyễn Ái Quốc đã có kinh nghiệm thuyết phục
họ bằng cách lồng chủ nghĩa cộng sản vào tinh thần yêu nước, mặt khác hiểu rõ
được lập trường của những người bất đồng chính kiến để có thể tìm cách
hợp tác hay đối phó thích hợp.
Sau khi Tôn Dật Tiên qua đời năm 1925, mối
quan hệ thân thiện giữa đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng ở Trung Hoa bị tan rã
mau chóng. Khi Tưởng Giới Thạch dùng bạo lực thanh trừng cộng sản năm 1927 thì
Nguyễn Ái Quốc phải trốn sang Hồng Kông để từ đó trở về Nga rồi lại trở sang Âu
châu. Giữa năm 1928 ông đáp tàu đi Thái Lan, liên lạc được với đoàn viên của
nhóm VNTNCM và bắt đầu hoạt động trong cộng đồng Việt kiều ở Thái. Trong thời
gian này, VNQDĐ từ bên Việt Nam có tiếp xúc với VNTNCM tính phối hợp hoạt động
nhưng không thành vì đường lối cách mạng không hợp nhau. VNQDĐ áp dụng Tam Dân
chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh
phúc)2 nhưng không chấp nhận chủ trương đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác-Lê.
Chính trong nội bộ của VNTNCM cũng có sự
rạn nứt ngấm ngầm và đã bùng nổ công khai trong kỳ đại hội tháng Năm 1929 ở
Hồng Kông. Nhóm đại biểu từ Việt Nam qua do Trần Văn Cung cầm đầu bỏ đại hội
trở về nước để phản đối Chủ tịch Đại hội Lâm Đức Thụ, và ngay sau đó lập ra
Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) để cạnh tranh với VNTNCM. Mấy tháng sau, nhóm
Hồ Tùng Mậu, Lê Quang Đạt, Lê Hồng Sơn ở Trung Hoa lại lập ra An Nam Cộng Sản
Đảng (ANCSĐ) và đề nghị họp với ĐDCSĐ để bàn chuyện thống nhất nhưng Trần Văn
Cung từ chối đề nghị này. Trong khi đó, một số đảng viên cũ của Tân Việt Cách
Mạng Đảng, một tổ chức thành lập sau khi Phan Bội Châu bị Pháp bắt năm 1925,
lại lập thêm một đảng khác lấy tên là Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn (ĐDCSLĐ).
Trước tình trạng chia rẽ của cộng sản Việt Nam thành ba phe, Comintern thông
báo không thừa nhận phe nào và đòi hỏi phải có một hội nghị thống nhất dưới sự
điều hợp của đại diện Comintem. Đầu tháng Hai 1930, hội nghị thống nhất này
được triệu tập tại Hồng Kông dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc và kết quả là
sự giải tán cả ba phe để thành lập một tổ chức duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt
Nam (ĐCSVN).
Trong lúc đó, VNQDĐ đang chuẩn bị cuộc khởi
nghĩa Yên Báy. Do lời mời của VNQDĐ, một số đảng viên cộng sản có ý định tham
gia nhưng Trần Văn Cung không đồng ý vì cho rằng cuộc khởi nghĩa thiếu chuẩn bị
và chưa có được thời cơ. Nguyễn Ái Quốc sau này cho biết trong lúc hội nghị
thông nhất ở Hồng Kông đang họp, ông cũng đã tìm cách ngăn cản cuộc khởi nghĩa
này nhưng không thể liên lạc được với VNQDĐ. Tuy nhiên, theo Hoàng Văn Đào, tác
giả Việt Nam Quốc Dân Đảng 1927-1954, thì các đảng viên cộng sản đã phát
truyền đơn để cho Pháp biết được âm mưu khởi nghĩa.3 Dù thực
hư ra sao, cuộc khởi nghĩa Yên Báy (10-15 tháng Hai 1930) đàng nào cũng thất
bại vì lực lượng cách mạng còn yếu và tổ chức còn có nhiều khuyết điểm lớn.
Đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng mười hai đồng chí bị Pháp bắt được, kết án tử
hình và đem lên máy chém ngày 17 tháng Sáu 1930. Sau khi khởi nghĩa thất bại,
VNQDĐ vẫn còn cố gắng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Thị
Giang (tự tử ngay sau khi người yêu là Nguyễn Thái Học bị hành hình,) Hoàng
Đình Gị, Vũ Tiến Lữ, Vũ Vạt nhưng lần lượt kẻ bị bắt, người bị giết, đến năm
1932 thì hầu hết các lãnh tụ còn lại đều phải trốn sang Trang Hoa. Ngày 1 tháng
Năm 1930, ĐCSVN phát động nhân dân nổi dậy ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, mệnh
danh là Phong trào Sô-viết Nghệ Tĩnh, cướp chính quyền ở nhiều nơi nhưng cũng
bị Pháp đàn áp dã man đến năm 1931 thì phong trào hoàn toàn bị dập tắt.
Mầm mống xung đột giữa quốc gia và cộng sản
bắt đầu khi Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa năm 1924 để hoạt động cho
Comintern. Ông đã khéo đưa lòng yêu nước lên hàng đầu để liên kết những cá nhân
và đảng phái lưu vong chống thực dân Pháp, ngoại trừ một số lãnh tụ đã sớm bất
đồng ý với ông như Nguyễn Hải Thần, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn An Ninh. Theo
Duiker, Nguyễn Ái Quốc “thường nhận định rằng những cuộc liên kết như vậy với
các đảng phái quốc gia có thể hữu ích nhưng chỉ cho mục tiêu chiến thuật mà
thôi.”4 Nhận định này cũng tương tự như quan điểm của Trần Phú,
Tổng Bí thư đầu tiên của ĐCSVN, trong một thông tư giải thích rằng sự giúp đỡ
của tư sản và địa chủ là cần thiết, nhưng những thành phần này sẽ phản bội sự
nghiệp cách mạng vì căn bản của họ là phản động.5 Do sự
suy yếu của VNQDĐ sau cuộc thất bại Yên Báy và tình trạng chia rẽ giữa các lãnh
tụ lưu vong của đảng này ở Trung Hoa, ĐCSVN là đoàn thể chính trị cách mạng có
tổ chức qui củ và mạnh mẽ nhất dưới sự lãnh đạo vằ giúp đỡ của Comintem.
Chỉ tám tháng sau ngày thành lập, do yêu
cầu của Comintem, ĐCSVN lấy lại tên cũ là Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) để phù
hợp với ưu tiên quốc tế là đấu tranh giai cấp còn mục tiêu độc lập dân tộc chỉ
là thứ yếu. Điều này khác với chủ thuyết Lê- Nin mà Nguyễn Ái Quốc hằng theo
đuổi, nhưng ông vẫn lặng lẽ tuân hành trong vai trò của một đại diện Comintern
ở Hồng Kông. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác giữa Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú không
còn được tốt đẹp. Trần Phú thường chỉ trích Nguyễn Ái Quốc là có khuynh hướng
“dân tộc” không theo đúng đường lối chính thống của Comintern. Tình trạng bất
hòa này không kéo dài vì trong một chiến dịch truy lùng của mật thám Pháp, Trần
Phú bị bắt ở Sàigòn vào tháng Tư 1931 rồi chết ở trong tù mấy tháng sau đó. Do
sự sơ hở của Serge Lefranc, một cán bộ người Pháp của Comintern, Nguyễn Ái Quốc
cũng bị lộ hình tích và bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Kông vào tháng Sáu năm ấy.
Nhờ sự biện hộ cuả luật sư Frank Loseby, Nguyễn Ái Quốc không bị Anh trao trả
cho nhà cầm quyền Pháp. Cũng nhờ sự giúp đỡ của Loseby, ông đã có thể trốn
thoát sang Nga năm 1934.
Ở Việt Nam, sau những cuộc đàn áp tàn bạo
của Pháp năm 1930-31, các hoạt động cách mạng đều phải lùi vào bóng tối. Một số
lãnh tụ cộng sản bị bắt hay bị giết, số còn lại phải sang Trung Hoa để tìm cách
phục hồi tổ chức. Một số cán bộ huấn luyện ở Nga được gửi về tăng cường
cho ĐCSĐD. Trong số này, Lê Hồng Phong cùng với Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên
lập Ban Chỉ huy Hải ngoại ở Nam Ninh, Trần Văn Giàu trở về nước đảm nhiệm việc
xây dựng lại cơ sở đảng ở miền Nam. Tháng Sáu 1934, một hội nghị được triệu tập
tại Macao để xác định đường lối đấu tranh. Hội nghị kết án những phần tử ôn hòa
có khuynh hướng quốc gia đều là những kẻ đồng lõa với chủ nghĩa đế quốc. Trong
số những người này có những nhà ái quốc tên tuổi như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn An
Ninh, Huỳnh Thúc Kháng và luôn cả những đoàn viên cũ của Việt Nam Thanh Niên
Cách Mạng hay Tân Việt Cách Mạng. Tháng Ba 1935, một Đại hội cộng sản được
triệu tập ở Macao và Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí thư. Cùng một lập trường
với Trần Phú, trong những báo cáo gửi cho Comintern, Hà Huy Tập tố cáo Nguyễn
Ái Quốc duy trì quan điểm “cách mạng dân tộc”, một di sản nguy hiểm của nhóm
VNTNCM.
Một cơ may bất ngờ đã đến với Nguyễn Ái
Quốc. Đó là Đại hội Cộng sản Quốc tế lần thứ Bảy năm 1935 ở Moscow. Trong Đại
hội này, Nguyễn Ái Quốc chỉ tham dự với tư cách quan sát viên, đại diện cho Ban
Phương Đông của Comintern. Đoàn đại biểu chính thức từ Việt Nam sang do Lê Hồng
Phong cầm đầu với hai đoàn viên là Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Non. Mục
đích chính của Đại hội là thông qua sự thay đổi căn bản về chiến lược Cộng sản
quốc tế trước một tình thế mới. Sự kiện Đảng Quốc Xã của Hitler lên nắm chính
quyền ở Đức và viễn tượng thành công của chủ nghĩa Quốc gia cực đoan do Kita
Ikki đề xướng ở Nhật là những đe dọa lớn cho Comintern, do đó các đảng cộng sản
cần tìm cách liên minh với những đảng phái quốc gia thành những mặt trận rộng
lớn chống đế quốc. Sự thay đổi chiến lược này mặc nhiên công nhận chủ trương
của Nguyễn Ái Quốc muốn áp dụng ở Việt Nam. Sau Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc xin
được trở về nước hoạt động nhưng mãi đến tháng Chín 1938 mới được Comintern
chấp thuận. Lúc đó ông vừa làm việc cho Comintern vừa theo học một khóa bổ túc
tại Viện Nghiên cứu các vấn đề Quốc gia và Thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đi xe lửa tới biên giới
Trung Hoa, dùng đường bộ đi thăm căn cứ đảng cộng sản ở Diên An, rồi xuôi nam
cho tới Quế Lâm. Tại đây ông làm việc cho Đệ Bát Lộ Quân của Tưởng Giới Thạch
với nhiệm vụ kiểm soát y tế nhưng cũng viết báo cho Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc,
một tổ chức liên minh cộng sản và quốc dân đảng ở Trung Hoa để chống Nhật.
Thỉnh thoảng ông cũng gửi bài về nước đăng trong tờ báo Pháp văn La Voix
do ĐCSĐD xuất bản ở Hà-nội ký tên là p.c. Line (có lẽ do tên Linov của ông khi
ở Nga, còn P.C. có thể là chữ tắt của Parti Communiste?) Đáng chú ý nhất là một
bài viết hồi tháng Bảy 1939 khuyến cáo uỷ ban Thường trực ĐCSĐD trên quan điểm
chiến lược đã được chấp thuận trong Đại hội Comintern kỳ thứ bảy, trong đó nhấn
mạnh đến sự cần thiết thành lập một mặt trận dân chủ rộng rãi ở Đông Dương, kết
hợp cả hai thành phần lao động và tư sản. Theo ông, Đảng không cần giành vai
trò lãnh đạo mà chỉ cần tranh thủ đa số ủng hộ quan điểm lãnh đạo linh động của
Đảng. Quan điểm này được Ban Thường trực tán thành, nhất là khi Hà Huy lạp đã
bị thay thế bởi Nguyễn Văn Cừ trong chức vụ Tổng Bí thư trong một phiên họp của
uỷ ban Trung ương tại Hóc Môn vào tháng Ba 1938.
Khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ ở Âu châu vào
tháng Chín 1939 thì ở Đông Dương, Toàn Quyền Georges Catroux ra lệnh chấm dứt
tất cả hoạt động của các đảng phái chính trị. Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Lê
Duẩn lần lượt bị bắt. Hà Huy Tập thì đã bị giam từ tháng Năm 1939 trong cuộc
biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Ngày 19 tháng Sáu 1940, năm ngày sau
khi Paris đầu hàng quân Đức, Toàn Quyền Catroux nhận được điện văn của Đại sứ
Pháp ở Tokyo là Arsène Henry chuyển tối hậu thư của chính phủ Nhật đòi hỏi Pháp
phải đóng cửa biên giới Đông Dương, cắt đứt đường dây tiếp tế dầu xăng và quân
nhu cho Trung Hoa đồng thời phải để cho Nhật kiểm soát biên giới này. Ngày 20
tháng Bảy, Đô Đốc Decoux đến thay thế cho tướng Catroux thì ngày 2 tháng Tám
lại nhận được một tối hậu thư khác của Nhật đòi Pháp phải để cho quân đội Nhật
vào Đông Dương chống quân đội Tưởng Giới Thạch, sử dụng các phi trường và gìn
giữ an ninh. Sau hai tháng điều đình, một trận đụng độ ở biên giới Lạng Sơn xảy
ra ngày 22 tháng Chín nhưng chỉ ba ngày sau Pháp đã phải đầu hàng. Kết cuộc là
Pháp chính thức nhìn nhận sự hiện diện của quân đội Nhật tại Đông Dương và Nhật
bằng lòng để cho Pháp tiếp tục cai trị về hành chánh.6
Lợi dụng sự yếu thế của chính quyền thuộc
địa Pháp, nhất là sau vụ đụng độ ỡ Lạng Sơn, ĐCSĐD tổ chức vào cuối tháng Chín
một cuộc nổi dậy của dân sắc tộc Tày, Nùng, Giao, đánh phá các đồn binh của
Pháp ở vùng biên giới, cướp được nhiều vũ khí và tiến về Bắc Sơn cách phía tây Lạng
Sơn chừng bốn mươi cây số”. Cuối tháng Mười, trong lúc các cán bộ đang hội họp
với dân chúng trong vùng thì Pháp được mật báo đem quân đến tàn sát và dẹp tan
cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Ở trong Nam, đảng bộ cộng sản cũng chuẩn bị từ tháng
Ba một cuộc khởi nghĩa khác rộng lớn hơn và được phát động vào tháng Mười Một.
Tuy nhiên vì thiếu phối hợp và kế hoạch bị Pháp phát giác sớm nên cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ bất thành,ngoại trừ ở một số tỉnh như Long Xuyên và Mỹ Tho nghĩa
quân có đốt phá và chiếm đóng được một số cơ quan trong vài tuần. Cuộc đàn áp
của Pháp hết sức dã man, trên hai ngàn người bị giết tại chỗ còn số người bị
bắt lên đến tám ngàn. Nhà tù không đủ chỗ chứa, nhiều người bị giam trên tàu bè
đậu trên sông Saigon. Để phòng ngừa tù nhân bỏ trốn và cũng vì không có đủ
xiềng xích, Pháp đã cho xâu bàn tay và bàn chân của tù nhân bằng dây thép.
Trong năm 1940, ĐCSĐD đã bị thiệt hại nặng
nề nhất về đảng viên lãnh đạo. Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt ở Saigon, đến tháng
Ba 1941 thì bị đem xử bắn cùng với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và cựu Tổng Bí thư
Hà Huy Tập. Đảng viên cao cấp Lê Hồng Phong, chồng của Nguyễn Thị Minh Khai, bị
hành hạ trong nhà tù Côn Đảo và chết năm 1942. Đáng để ý là quân đội chiếm đóng
Nhật không hề giúp đỡ những lực lượng cách mạng chống Pháp, mặc dù trước đó
Nhật đã khuyến khích những lực lượng này. Ngay cả nhóm Phục Quốc của Hoàng thân
lưu vong Cường Để cùng về nước với quân Nhật năm 1940 và tham gia trận đánh
quân Pháp ở Lạng Sơn, cũng bị bỏ rơi. Nhóm này âm mưu với Đội Cung (Nguyễn Văn
Cung) cùng với một số binh lính yêu nước khởi nghĩa ở Đô Lương, Nghệ An vào
tháng Giêng 1941, nhưng cuộc khởi nghĩa này thất bại vì không được yểm trợ. Đội
Cung và một số nghĩa quân bị Pháp xử bắn ngay sau đó. Rõ ràng là đế quốc Nhật
thời đó đã chỉ muốn sử dụng các lực lượng chống Pháp làm phương tiện nhất thời
để đem quân vào chiếm đóng Đông Dương và sẵn sàng bỏ rơi tất cả khi đã đạt được
mục tiêu.
Trong thời gian xảy ra những biến cố này,
Nguyễn Ái Quốc còn đang ở Quế Lâm và mới móc nối được với nhóm đảng viên trẻ từ
Việt Nam qua trong đó có Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Nhận
định về sự hợp tác dù bất đắc dĩ giữa thực dân Pháp và quân phiệt Nhật ở Đông
Dương và rút kinh nghiệm thất bại của những cuộc nổi dậy ở trong nước, Nguyễn
Ái Quốc càng thấy cần phải cho ra đời một mặt trận kết hợp mọi lực lượng yêu
nước để cùng đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Ông đem ý tưởng này ra tham
khảo với các đồng chí thân cận và đề nghị đặt tên cho mặt trận là Việt Nam Độc
Lập Đồng Minh Hội (VNĐLĐMH). Đây là tên đã có sẵn của một tổ chức do Hồ Học
Lãm, một đoàn viên cũ của Phan Bội Châu đã trở thành sĩ quan cấp tá trong quân
đội Trung Hoa Dân Quôc, thành lập năm 1936 để kết hợp những người cách mạng lưu
vong hồi đó. VNĐLĐMH cũ được sự giúp đỡ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, nhưng
vì những khó khăn nội bộ và chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ nên cũng không có
thành tích gì đáng kể. Cuối năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn liên kết được với
Trương Bội Công, một lãnh tụ VNQDĐ và cũng là sĩ quan cấp tướng trong quân đội Trung
Hoa, lập thêm một tổ chức mới mang tên là Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Đồng
Minh. Tổ chức này đến cuối năm 1941 thì tan rã vì những lãnh tụ quốc gia tố cáo
Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp huấn luyện đoàn viên mới theo đường lối cộng
sản. Hai ông Đồng và Giáp phải về nước để tăng cường cho lực lượng quốc nội.
Nguyễn Ái Quốc đã bí mật trở về Việt Nam từ
Tháng Hai 1941, lập căn cứ trong hang Pắc Bó thuộc tỉnh Cao Bằng, sát biên giới
Trung Hoa. Tại đây, trong Đại hội thứ Tám của ủy ban Trung ương ĐCSĐD từ 10 đến
19 tháng Năm 1941, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) chính
thức ra đời. Đại hội ra nghị quyết ấn định nhiệm vụ của mặt trận Việt Minh là
đánh đuổi thực dân Pháp và quân xâm lược Nhật để giành lại độc lập cho xứ sở.
Để bảo toàn bí mật cho cơ sở hoạt động, Nguyễn Ái Quôc viết Lá Thư Hải Ngoại
để cho đài phát thanh Liễu Châu phóng về Việt Nam ngày 6 tháng Sáu 1941, thông
báo thời cơ đã đến để toàn dân tham gia công cuộc giải phóng dân tộc ra khỏi
vòng nô lệ Pháp và Nhật. Mặt trận tổ chức các khóa đào tạo cán bộ về chính trị,
quân sự và các kỹ thuật tổ chức, vận động quần chúng. Các đoàn thể nhân dân cứu
quốc thuộc mọi thành phần công nhân, nông dân, bộ đội, tôn giáo, phụ lão, thanh
niên, phụ nữ, nhi đồng được thành lập như những tổ chức ngoại vi của mặt trận
Việt Minh.
Sau khi lập được cơ sở cho mặt trận Việt
Minh ở trong nước, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Hoa vào tháng Tám 1942 với ý
định tiếp xúc giới lãnh đạo Quốc Dân Đảng để đề nghị việc hợp tác chống Nhật.
Để tránh mật thám Pháp ở biên giới, ông mang giấy tờ giả với tên Hồ Chí Minh là
tên đã dùng trong thời gian hoạt động ở Quế Lâm. Chẳng may, ông bị công an
Trung quốc khám xét và bắt giữ về tội tình nghi làm gián điệp cho Nhật. Khi
cuộc điều tra nhận ra lý lịch của ông là đảng viên Comintem, ông bị đưa về giam
ở Liễu Châu. Tháng Mười năm đó, Tổng Đốc tỉnh Quảng Tây là Tướng Trương Phát
Khuê triệu tập tại Liễu Châu một hội nghị của các tổ chức quốc gia Việt Nam lưu
vong để thành lập một liên minh chống Pháp và Nhật. Kết quả là sự ra đời của
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (VNCMĐMH) dưới sự lãnh đạo của một ủy ban
Thường trực gồm có những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ như Trương Bội Công, Nguyễn
Hải Thần, Vũ Hồng Khanh.
VNCMĐMH được Quốc Dân Đảng Trung Hoa tài
trợ hàng tháng để thực hiện các hoạt động tình báo và quân sự chống Nhật ở Việt
Nam. Trước đó, Đệ tứ Chiến khu của Tướng Trương Phát Khuê cũng đã đào tạo được
702 cán bộ cách mạng Việt Nam trẻ tuổi sẵn sàng phục vụ cho tổ chức. Nhưng vì
sự hiềm khích giữa các phe nhóm và đầu óc vị kỷ của một số người lãnh đạo,
VNCMĐMH trở nên bất lực và mất uy tín rất nhanh. Do sự vận động từ trước của
Chu Ân Lai và một số nhân vật trong liên minh kháng Nhật, Trương Phát Khuê bắt
đầu nghĩ đến việc đưa Hồ Chí Minh vào kế hoạch chống Nhật ở Đông Dương thay thế
các lãnh tụ quốc gia. Ông giao cho phụ tá là tướng Tiêu Văn nhiệm vụ tiếp xúc
thăm dò Hồ Chí Minh tại nhà giam Liễu Châu. Hồ Chí Minh cam kết rằng mục tiêu
trước mắt của ông là khôi phục độc lập và tự do cho Việt Nam, và “quả quyết
rằng một xã hội cộng sản ở Việt Nam phải ít nhất năm mươi năm sau mới thành lập
được.”7 Sau khi xem xét bản dự thảo kế hoạch của Hồ Chí Minh cải
tổ cơ cấu kháng chiến và thành lập mạng lưới tình báo ở Việt Nam, Trương Phát
Khuê quyết định thả Hồ Chí Minh ngày 16 tháng Chín 19438 và bắt
đầu giao cho ông nhiệm vụ thực hiện kế hoạch, dù chỉ với tư cách một thành viên
dự khuyết trong uỷ ban Điều hành VNCMĐMH. Được sự hỗ trợ của Trương Phát Khuê
và Tiêu Văn, Hồ Chí Minh tổ chức lại cơ cấu VNCMĐMH, tuyển thêm cán bộ gồm một
số của mặt trận Việt Minh, mở lớp đào tạo về hoạt động tình báo và tuyên truyền
chống Nhật.
Từ đầu năm 1944, khi thấy Nhật đã suy yếu
và không tránh khỏi bại trận, chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt đầu nghĩ đến vai
trò của mình ở Đông Dương. Vì lòng thù hận sẵn có đối với Pháp và các nước Tây
phương sau cuộc Chiến tranh Nha Phiến (1839-1842) và cuộc khởi nghĩa thất bại
của Nghĩa Hòa Quyền (1898-1901), Trung Hoa muốn lợi dụng thế đồng minh với Mỹ
để ngăn chặn Pháp trở lại làm chủ các thuộc địa cũ, và giúp cho Việt Nam độc
lập với một chính phủ thân Trung Hoa. Tại Hội Nghị Cairo, Ai Cập, tháng Mười
Một 1943, khi Tổng Thống Roosevelt gợi ý để cho Đông Dương sát nhập với Trang
Hoa, Thống chế Tưởng Giới Thạch cho biết ông chỉ muốn híup cho những quốc gia
trong vùng này được độc lập. Lúc đó, đôi s với họ Tưởng, Nhật chỉ là mối nguy
trước mắt còn nguy cơ lâu dài là đảng cộng sản của Mao Trạch Đông, vì vậy ông
cần có sự ủng hộ của các nước thân Trung Hoa ở phía Nam.
Để chuẩn bị cho những mục tiêu hàng đầu này
có cơ thực hiện, VNCMĐMH cần được tăng cường lực lượng và phương tiện hoạt
động. Tháng Ba 1944, Trương Phát Khuê cho triệu tập Đại Hội VNCMĐMH tại Liễu
Châu lần thứ hai. Hội nghị lần này ngoài Hồ Chí Minh còn có hai đại biểu Việt
Minh là Phạm Văn Đồng và Lê Tùng Sơn tới tham dự. Các đại biểu VNQDĐ đã cố gắng
vận động Trương Phát Khuê loại trừ ảnh hưởng của Việt Minh nhưng không thành
công. Sau ba ngày họp, Hồ Chí Minh được chính thức bầu vào uỷ ban Điều hành của
VNCMĐMH với đầy đủ trách nhiệm về hoạt động của tổ chức này ở Việt Nam. Cuối
tháng Tám, Hồ Chí Minh lên đường về nước, được Trương Phát Khuê cấp đầy đủ giấy
tờ chứng minh, một số dụng cụ, thuốc men và tiền chi phí cần thiết. Mười tám
cán bộ tốt nghiệp trường đào tạo Liễu Châu cũng được cử đi theo Hồ Chí Minh trong
chuyến này. Tới biên giới, cả đoàn thay quân phục Trung Hoa bằng quần áo thường
dân và về tới Pắc Bó ngày 20 tháng Chín.
Đáng chú ý là vào giữa năm 1944, hệ thống
tình báo của chính phủ Tưởng Giới Thạch cũng hỗ trợ cho một phe VNQDĐ của
Nghiêm Kế Tổ lập ba trạm truyền tin ở Việt Nam với triển vọng bành trướng lực
lượng quốc gia. Nhưng mới hoạt động được vài tháng, Nghiêm Kế Tổ đã bị tướng
Tiêu Văn hạ lệnh bắt và sau đó đuổi về thủ đô Trùng Khánh. Thái độ bất nhất của
Tiêu Văn đối với mặt trận Việt Minh, lúc đầu ủng hộ sau lại đe dọa khi thấy Hồ
Chí Minh tìm cách hợp tác với tổ chức tình báo OSS của Mỹ, đến khi sang Việt
Nam để tước khí giới quân đội Nhật năm 1945 thì lại nhận hối lộ của Việt Minh
và phản lại phe quốc gia (như sẽ nói đến dưới đây,) cho thấy rằng viên tướng
này chỉ là một kẻ mưu cầu cho quyền lợi của riêng mình.
Ngay khi còn ở Trung Hoa, Hồ Chí Minh đã
rút được kinh nghiệm trong thế liên minh bất đắc dĩ để chống Nhật giữa Mao
Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch, do đó đã chuẩn bị trước cho sự tan vỡ sau này
của quan hệ hợp tác giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Đầu mùa Hè 1944,
ông bắt liên lạc với Sở Hành Động Chiến Lược (Office of Strategic Services –
OSS) và Sở Thông Tin Chiến Tranh (Office of War Information – OWI) của Hoa Kỳ ở
miền Nam Trung quốc để đề nghị hợp tác. OWI đã tính đưa Hồ Chí Minh sang
San Francisco để phụ trách chương trình phát thanh về Việt Nam nhưng tòa Đại sứ
Mỹ ở Trùng Khánh không chịu cấp visa cho ông vì sợ làm mất lòng chính phủ Pháp.
Tuy nhiên, khi Nhật đã nắm trọn quyền kiểm soát Đông Dương sau cuộc đảo chính 9
tháng Ba 1945, toàn bộ hệ thống tình báo của chính phủ Pháp và của nhóm tư nhân
GBT9 đều phải bỏ chạy sang Trung Hoa. Khi đó, Việt Minh là
nguồn tình báo duy nhất ở Đông Dương, không những có thể làm tai mắt cho Mỹ mà
còn có ích cho tổ chức Trợ Lực các Họat Động Trên Không và Dưới Đất (Air Ground
Aid Services – AG AS) của Đồng Minh trong khu vực này.
Giữa tháng Ba 1945, Trung uý Hải quân
Charles Fenn của OSS gặp Hồ Chí Minh lúc đó đã trở qua Côn Minh để bàn về khả
năng thiết lập một hệ thống truyền tin ở Việt Nam. Sau ba phiên họp với ông Hồ
và được sự chấp thuận của AGAS, Fenn đã cung cấp máy móc và dụng cụ truyền tin
cho căn cứ Việt Minh ở Pắc Bó. Trong hồ sơ của năm mươi ba cộng tác viên, Fenn
viết tên Hồ Chí Minh là Ho Tchih Ming với bí danh là Lucius.10 Ngày 29
tháng Ba, Fenn đưa Hồ Chí Minh tới gặp Tướng Claire Chennault, tư lệnh phi đoàn
“Cọp Bay”. Ông Hồ được Tướng Chennault cám ơn về việc Việt Minh cứu phi công Mỹ
Rudolph Shaw bị lâm nạn hồi tháng Mười Một 1944. Trước đó một tháng, ông Hồ đã
yêu cầu được gặp Chennault nhưng bị từ chối. Trong cuộc gặp gỡ lần này, do lời
yêu cầu của ông Hồ, tướng chỉ huy Cọp Bay đã ký tặng cho ông một tấm hình kỷ
niệm. Tấm hình này cũng như sự hỗ trợ của OSS cho Việt Minh trong thời gian
chống Nhật đã thuyết phục được nhiều người gia nhập hay ủng hộ mặt trận Việt
Minh vì tin tưởng có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Khoảng giữa tháng Tư, trước khi trở về Việt
Nam, Hồ Chí Minh gặp Đại úy Archimedes “Al” Patti vừa được OSS cử sang điều
khiển hoạt động tình báo ở Đông Dương. Patti có ấn tượng rất tốt về ông Hồ sau
buổi họp này và, mặc dầu chưa cam kết cụ thể, Patti hứa sẽ cứu xét việc giúp đỡ
lực lượng Việt Minh để đổi lấy những tin tức tình báo và cấp cứu phi công Mỹ
lâm nạn. Có khoảng bốn chục người đi theo Hồ Chí Minh về Pắc Bó, trong đó có
Frank Tan, thành viên của GBT và Mac Shinn, chuyên viên truyền tin của quân đội
Mỹ. cả hai đều là người Mỹ gốc Hoa được Charles Fenn gửi đi để che giấu hình
tích của OSS, ngay cả đối với đồng minh Trung Hoa và Pháp. Sau khi nhận được
báo cáo tốt của Tan và Shinn, OSS thả dù xuống Pắc Bó thêm một máy truyền tin
và bắt đầu tiếp tế khí giới, thuốc men cho Việt Minh. Sự hợp tác giữa oss và
Việt Minh bắt đầu từ đó.
Sự hợp tác OSS-Việt Minh có ý nghĩa chính
trị hơn kể từ tháng Bảy 1945 khi Trung Tá Allison Thomas cầm đầu “Toán Con Nai”
Deer Team)11 nhảy dù xuống Tân Trào, một chiến khu mới ở giữa Tuyên
Quang và Thái Nguyên, bắt đầu thời kỳ huấn luyện bốn tuần cho khoảng hai trăm
cán bộ chỉ huy bộ đội Việt Minh về cách sử dụng những vũ khí mới nhất và chiến
thuật du kích chiến. Trong thời gian này, Hồ Chí Minh bị bệnh sốt rét và kiết
lỵ rất nặng, có lúc đã lâm vào tình trạng hôn mê. Ông được một thày thuốc người
Tày chữa bằng lá cây nhưng ông được khỏi bệnh có lẽ là nhờ Paul Hoagland, một y
tá trong đoàn OSS, đã chích thuốc kí-nin và sulfa cho ông.12 Cũng
như Fenn và Patti, Thomas rất có cảm tình với Hồ Chí Minh, nhất là khi ông Hồ
tỏ ý muôn gặp một đại diện của chính phủ Pháp ở Côn Minh để bàn về quan hệ
Việt-Pháp sau Thế chiến II. Ông đề nghị năm điểm cải cách gồm có việc bầu cử
một nghị viện với “một Toàn Quyền người Pháp làm chủ tịch cho đến khi qhúng tôi
được độc lập”, trả lại độc lập cho Việt Nam “trong vòng ít nhất là năm năm
nhưng không được quá mười năm”, trả lại tài nguyên thiên nhiên cho Việt Nam và
được đền bù xứng đáng, cấm buôn bán nha phiến, và cam kết sẽ cho các dân tộc
Đông Dương được hưởng mọi quyền tự do như đã qui định trong Hiến Chương Liên
Hiệp Quốc.13 Thomas chuyển ý kiến của ông Hồ cho Jean Sainteny, khi
đó đang cầm đầu phái bộ quân sự Pháp Quốc Tự Do ở Trung Hoa có bí danh là M.5
và đang chuẩn bị cho việc Pháp trở lại Đông Dương. Sainteny đã không trả lời
những đề nghị này.
Việc Hồ Chí Minh nhờ OSS chuyển đề nghị cho
Pháp là một tính toán chính trị rất cao, dù không có tính cách chính thức ở cấp
chính quyền và bất kể phản ứng của Pháp như thế nào. Nếu Pháp đồng ý thảo luận
thì uy tín ông Hồ sẽ gia tăng và Việt Minh đương nhiên có chính danh. Nếu Pháp
không đồng ý thì Mỹ cũng được yên tâm vì Pháp không có thể trách về việc giúp
cho Việt Minh chống Nhật. Ngoài ra, quan điểm của ông Hồ rất phù hợp với chủ
trương của Tổng Thống Roosevelt là muốn Pháp trả lại độc lập cho các thuộc địa
cũ ở Đông Dương. Kết quả của đề nghị bất thành này là OSS vẫn tiến hành việc
tiếp tế và huấn luyện quân sự cho quân du kích Việt Minh, đem lại cơ hội cho
Việt Minh gây uy tín và ảnh hưởng trong quần chúng, OSS ủng hộ Việt Minh đến độ
Allison Thomas đã viết vắn tắt trong một điện văn gửi về ban chỉ huy ở Côn
Minh: “Hãy quên đi con ngáo ộp Cộng sản. Việt Minh không phải là cộng sản.
Tranh đấu cho tự do và thoát vòng kiềm chế của Pháp.” Dan Phelan, người của
AGAS đã hoạt động với dân quân ở Tân Trào trong nhiệm vụ cứu những phi
công lâm nạn, cũng báo cáo rằng Việt Minh “không chống Pháp. Chỉ là những người
yêu nước xứng đáng được tin cậy và giúp đỡ hoàn toàn.”14
Tình trạng thù nghịch giữa cộng sản và quốc
gia mãi tới sau khi Thế chiến II chấm dứt mới trở nên thật sự gay go và sử dụng
bạo lực. Việt Minh, vì là tổ chức duy nhất có qui củ với thành tích chống cả
Pháp lẫn Nhật và được sự trợ giúp dù giới hạn của Hoa Kỳ, đã có đủ điều kiện
thuận lợi để nắm lấy cơ hội lịch sử sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày
14 tháng Tám 1945. Từ đầu tháng, Việt Minh chuẩn bị họp Đại hội Trung ương Đảng
Cộng sản lần thứ Chín để thảo luận kế hoạch cướp chính quyền. Lúc đó, Hồ Chí
Minh được Phong Trào Pháp Quốc Tự Do ở Côn Minh mời sang họp nhưng máy bay
không tới đón ông được vì thời tiết xấu. Khi được tin Mỹ đã ném trái bom nguyên
tử đầu tiên xuống Hiroshima ngày 6 tháng Tám, ông quyết định ở lại Tân Trào họp
uỷ ban Trung ương Đảng, bắt đầu ngày 13 tháng Tám. Ngay trong ngày đầu hội
nghị, một Ủy Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc được thành lập và đặt dưới sự điều động
của Trường Chinh. Uỷ Ban ra Quân lệnh số 1, chỉ thị cho “các tướng sĩ và đội
viên quân giải phóng Việt Nam… hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị
và các trọng trấn của quân địch, đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước vũ
khí của chúng!” Quân lệnh cũng hô hào “đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo
quân giải phóng, xung vào bộ đội, xông ra mặt trận đuổi quân thù.”
Thật ra, Việt Minh đã bắt đầu chuẩn bị cướp
chính quyền từ nhiều tháng trước, nhất là từ sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh
ngày 7 tháng Năm 1945. Đầu tháng Sáu, Việt Minh tuyên bố lập vùng giải phóng ở
miền núi Việt Bắc rồi từ đó phát động những cuộc nổi dậy lẻ tẻ ở các tỉnh chung
quanh. Từ cuối tháng Bảy đến giữa tháng Tám, tình hình càng ngày càng sôi động
và lan dần tới những tỉnh gần Hà Nội hơn như Vĩnh Yên, Phú Thọ, Bắc Ninh. Nhiều
địa phương báo cáo về trung ương những cuộc hội họp, biểu tình bất hợp pháp,
xúi giục lính đào ngũ, bắt giữ viên chức chính phủ, phá cột dây điện, có nơi
lập ủy ban giải phóng. Trong khi đó, về phía các đảng phái quốc gia không thấy
có hoạt động chuẩn bị nào đáng kể. Nhà cầm quyền Việt Nam lúc đó là chính phủ
Trần Trọng Kim, mới hoạt động được mấy tháng và phải đương đầu với quá nhiều
khó khăn nội bộ, đã không thể kiểm soát được tình hình sau khi Nhật mau chóng
đầu hàng Đồng Minh. Các đảng phái quốc gia cũng không có kế hoạch gì ngoại trừ
việc hội họp và bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề nên hay không nên cướp chính
quyền, hoặc tổ chức vội vã những cuộc biểu tình chống Pháp, kêu gọi toàn dân
đoàn kết như của Mặt trận Đại Việt Quốc gia Liên minh hay nhóm Phụng sự Quốc
gia. Nhờ tình trạng gần như vô chính phủ và sự thiếu vắng lực lượng đối lập cho
nên, dù cũng rất vội vã vào giờ chót thậm chí phải rút ngắn Quốc Dân Đại Hội
triệu tập ngày 16 tháng Tám, Việt Minh đã có thể giành được chính quyền ở Hà
Nội một cách dễ dàng trong một cuộc cách mạng không đổ máu ba ngày sau đó
(19.8.1945).
Đến đây cần nói thêm về vai trò của chính
phủ Trần Trọng Kim trong một giai đoạn rất ngắn nhưng đầy biến cố, đánh dấu một
khúc ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Sau ngày đảo chính Pháp trên toàn
cõi Đông Dương (9.3.45), Nhật hứa hẹn với Hoàng Đế Bảo Đại sẽ để cho Việt Nam
được độc lập. Ngày 17 tháng Tư, mười ngày sau khi được Bảo Đại yêu cầu, Trần
Trọng Kim, một nhà giáo dục và học giả có uy tín, trình diện chính phủ do ông
cầm đầu gồm mười Bộ trưởng, tất cả đều là tri thức giàu lòng yêu nước nhưng
thiếu kinh nghiệm chính trị. Việt Minh lập tức công kích chính phủ Trần Trọng
Kim là “chính phủ bù nhìn” và nền độc lập mà Nhật hứa hẹn là “độc lập bánh vẽ.”
Quan điểm chính trị này đã được nhiều tác giả ngoại quốc mặc nhiên chấp nhận.
Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này cần được xem xét lại
một cách bình tĩnh và khách quan hơn.
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong một
hoàn cảnh rất tình cờ của lịch sử, không do kết quả tranh đấu cho nền độc lập
của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng phái hay một phong trào chính trị
nào. Sau gần một thế kỷ bị Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước Việt Nam được độc lập
(dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu. Sau khi nước Pháp bị Đức
chiếm đóng vào tháng Sáu 1940 và Toàn Quyền Decoux phải nhường cho Nhật quyền
làm chủ về quân sự ở Đông Dương vào tháng Chín, thì uy tín và quyền thế của
Pháp bị sụp đổ mau chóng đối với các xứ thuộc địa ở Đông Dương. Các đảng phái
chính trị Việt Nam bỗng thấy có động lực mới và thời cơ hoạt động để đòi lại
độc lập cho đất nước. Trừ những lãnh tụ chính trị đã lưu vong ở Trung Hoa và
đang hợp tác với chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch để chống Nhật —kể
cả Hồ Chí Minh— hầu hết các lãnh tụ chính trị và trí thức ở trong nước đều muốn
dựa vào thế lực của Nhật để loại trừ Pháp ra khỏi Đông Dương. Tổ chức có triển
vọng nhất lúc bấy giờ là Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội do Hoàng thân Cường
Để thành lập ở Nhật (thường được gọi là Nhóm Phục Quốc) đã từng tổ chức lực
lượng quân sự mang tên là Việt Nam Kiến Quốc Quân đi theo quân đội Thiên Hoàng
về đánh Pháp ở trận Lạng Sơn ngày 23.9.1940. Một số lãnh tụ, trong đó có Ngô
Đình Diệm, từ lâu đã liên lạc với Nhóm Phục Quốc để mưu đồ chống Pháp, có nhiều
hi vọng sẽ được Nhật ủng hộ thành lập chính quyền trong truờng hợp Pháp bị lật
đổ.
Tuy nhiên, vì còn bận chiến đấu với quân
đội Đồng Minh, mục đích trước mắt của Nhật là sử dụng Đông Dương vào mục tiêu
quân sự nên Nhật đã bằng lòng để cho Pháp tiếp tục cai trị về mặt hành chánh.
Năm 1944, Nhật bắt đầu nghĩ đến việc loại bỏ Pháp để phòng ngừa việc Pháp có
thể làm hậu thuẫn cho liên quân Anh- Mỹ vì mặt trận đã được mở rộng sang vùng
Đông Nam Á. Mặt khác, giải phóng cho các nước Đông Dương khỏi bị lệ thuộc vào
nước Pháp cũng sẽ giúp cho Nhật củng cố được ảnh hưởng và thế lực của “khối Đại
Đông Á” mà Nhật muốn lãnh đạo để chống lại khối Tây phương. Sau khi lật đổ
chính quyền Pháp trên toàn cõi Đông Dương (9.3.1945), Nhật duy trì Hoàng Đế Bảo
Đại và hứa hẹn sẽ để cho Việt Nam được độc lập. Bảo Đại cũng không ngờ rằng
Nhật lại để ông tiếp tục làm vua thay vì đưa Hoàng thân Cường Để về nước cầm
quyền. Ông đã hỏi Đại sứ Marc Masayuki Yokohama về chuyện này và nói: “Tôi gắn
bó với dân tộc tôi chứ không phải với ngai vàng.” Nhưng Đại sứ Nhật đã trả lời:
“Những người gieo mầm không phải là người gặt hái kết quả.” Điều đó cho thấy lý
do Nhật không ủng hộ Cường Để vì không tiện lập một chính phủ Việt Nam tuy
chống Pháp nhưng thân Nhật, trong khi Bảo Đại không phải là người của Nhật và
có thể được dân chúng tin tưởng nếu ông chống lại mưu toan của Pháp trở lại
Việt Nam. Người chuẩn bị cho Cường Để trở về thay thế Bảo Đại và cho Ngô Đình
Diệm làm Thủ tướng là Trung tá tình báo Hayashi Hidezumi. Vào giữa năm 1944,
tin đồn về chuyện này được lan truyền trong các giới chính trị khá lộ liễu đến
nỗi, để tránh cho Ngô Đình Diệm khỏi bị Mật thám Pháp lùng bắt, Nhật phải cải
trang cho ông Diệm thành một sĩ quan Nhật và đưa ông từ Huế vào Sài-gòn ẩn náu
trong một nhà thương quân đội Nhật. Đến tháng Giêng 1945, hai tháng trước ngày
đảo chánh, Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuichi quyết định không dùng lá bài
Cường Để nữa.16
Đến đây cũng cần nói đến trường hợp của
Phạm Quỳnh, Ngự tiền Văn phòng (tương đương với chức Thủ tướng) của Bảo Đại.
Chính phủ Nhật giữ Bảo Đại nhưng không muốn giữ Phạm Quỳnh vì ông là người bị
coi là thân Pháp. Thật ra, Phạm Quỳnh là một học giả yêu nước nhưng cũng là một
nhà chính trị ôn hòa, chủ trương rằng Việt Nam thời đó không thể chống nổi Pháp
nên cần phải học hỏi văn minh Tây phương qua văn hóa Pháp để dần dần đòi lại
quyền tự chủ. Trong một bản phúc trình cho nhà cầm quyền Pháp ở Huế sau ngày
Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đại sứ Yokohama thuật lại buổi yết kiến vua Bảo Đại để
báo tin việc chính phủ Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và trao trả độc lập cho
Việt Nam. Phạm Quỳnh hiện diện trong buổi tiếp kiến này yêu cầu Nhật Bản thừa
nhận nền độc lập của Việt Nam một cách chính thức vì Pháp đã bị tước quyền bảo
hộ. Ông nhấn mạnh rằng: “Để chúng tôi có thể hợp tác hữu hiệu với Nhật Bản,
chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt được điều
đó, uy tín của chính phủ chúng tôi cần phải được tăng cường bằng một hành động
long trọng tuyên cáo độc lập.” Yokohama trả lời rằng việc tuyên cáo độc lập để
chứng tỏ chủ quyền là hành động nội bộ mà “Ngài có tự do tuyệt đối để hành động
theo sự phán xét của chính phủ Ngài.” Tuy nhiên, Yokohama lại cho biết là vì
muốn sớm vãn hồi an ninh và trật tự và “bảo vệ xứ này chống lại cuộc xâm lăng
của quân địch trong tương lai,” Bộ Tư lệnh quân đội Nhật “mong muốn rằng hiện
trạng chính trị và hành chánh được duy trì nhiều chừng nào hay chừng nấy.”17
Những lý do trên cho thấy tại sao Nhật
không mời Phạm Quỳnh cũng như không mời Ngô Đình Diệm là những người có kinh
nghiệm về chính quyền mà lại mời Trần Trọng Kim, một trí thức không đảng phái,
tuy nhiệt tâm yêu nước nhưng không phải là một người làm cách mạng. (Xem thêm
chương 10 về lý do Ngô Đình Diệm không được mời, hay được mời nhưng không
nhận.) Đối với Trần Trọng Kim, đây là một chuyện rất bất ngờ mà chỉ sau khi gặp
Bảo Đại lần thứ hai, sau mười ngày trì hoãn, ông mới nhận trách nhiệm thành lập
chính phủ. Bảo Đại thúc giục ông:
Trước kia, người mình chưa độc lập. Nay có
cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để
độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập
cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ
cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.18
Chính phủ Trần Trọng Kim thường không được
nhắc nhở đến trong lịch sử tranh đấu giành độc lập cho dân tộc, hoặc nếu có thì
cũng chỉ được coi như một chính phủ chuyển tiếp trong một thời gian ngắn ngủi
không có thành tích gì đáng kể. Việt Minh thì dứt khoát lên án chính phủ Kim là
“bù nhìn” do Nhật tạo ra và chỉ đem lại cho Việt Nam một nền “độc lập bánh vẽ.”
Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và tác giả ngoại quốc cũng đồng ý một cách thiếu
thận trọng như thế. Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này
cần được xem xét lại một cách khách quan về tính chất chính đáng của chính phủ
ấy.
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ trong
tình trạng độc lập nửa vời vì chưa được trao trả trọn vẹn chủ quyền và lãnh
thổ, nhưng như lời nhận định nêu trên của Bảo Đại, đây là một cơ hội để cho
Việt Nam có thể chuẩn bị đầy đủ khả năng nhận lãnh hay đòi hỏi độc lập hoàn
toàn. Nếu không nắm lấy cơ hội này, Việt Nam không tránh khỏi tình trạng bị
quân phiệt Nhật thay thế Pháp cai trị một cách khắt khe trong những điều kiện
của chiến tranh chống quân đội Đồng Minh. Luật sư Trịnh Đình Thảo, sau này là
Chủ tịch của Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình (LMDTDCHB) trong hệ thống
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN,) cho biết Trần Trọng Kim “không tin
ở sự thành thật của nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những
biến cố có hại cho tương lai của xứ sở” nhưng ông Thảo đã thuyết phục được ông
Kim nhận lời yêu cầu của Bảo Đại với lý do “phải gấp rút thành lập Chính phủ
Việt Nam độc lập để đặt các Lực lượng Đồng Minh, nhất là Pháp, trước một tình
trạng pháp lý không thể đảo ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ những hiệp ước Bảo
hộ năm 1862 và 1874, tuyên cáo nước Việt Nam độc lập và thống nhất.”19
Luật sư Thảo cũng cho biết một chuyện đáng
lưu ý khác là Trần Trọng Kim đã được một chính khách Thái Lan chia sẻ kinh
nghiệm “bắt cá hai tay” (jouer sur les deux tableaux) để có thể tồn tại của
Thái Lan. Nhân vật này là Pridi Banomyong, cựu Bộ trưởng Ngoại giao của chính
phủ Thái Lan, vốn là bạn cùng lớp rất thân của luật sư Dương Văn Giáo tại Đại
học Luật khoa Paris và khi làm Bộ trưởng đã mời luật sư Giáo làm cố vấn chính
trị. Khi đó chính phủ Thái Lan do Thống Chế Phibul Songram cầm đầu, bắt buộc
phải thân Nhật lúc đó đang có 50,000 quân trú đóng ở Thái Lan. Pridi Banomyong
khi đó phải sang Sài-gòn để hoạt động cho vai trò trung lập của Thái Lan. Trong
thời gian này ông được Dương Văn Giáo giới thiệu với Trịnh Đình Thảo. Pridi cho
hay trong khi Phibul Songram đi với Nhật thì một số chính trị gia Thái ở Anh và
Mỹ hợp tác với Đồng Minh để tránh cho Thái Lan bị liệt vào phe thua trận khi
chiến tranh chấm dứt. Những chính khách lưu vong này thành lập một chính phủ
trừ bị để, khi cần thiết, sẵn sàng thay thế chính phủ Phibul Songram và được
Đồng Minh thừa nhận. Lời khuyên của Pridi Banomyong cho Trần Trọng Kim là “hãy
nắm lấy độc lập mà không theo Nhật.”20
Ngoài hoàn cảnh khó khăn về chính trị, đất
nước lại đang gặp phải tình trạng nguy ngập về kinh tế: nạn đói đang hoành
hành, các thành phố và trục lộ giao thông đường bộ, đường biển từ Nam ra Bắc bị
phi cơ và hạm đội Đồng Minh oanh tạc hay thả mìn. Bộ trưởng Xã hội của chính
phủ Kim, Bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bị thiệt mạng trong một vụ oanh tạc này. Các cơ sở
chính quyền còn ở trong tình trạng giao thời, quân đội chưa thành lập,
và guồng máy hành chánh do Pháp để lại chỉ là những thuộc cấp mà hầu hết là
“những tham quan ô lại chỉ quen sự thi hành mệnh lệnh của người Pháp, chứ không
mấy người có đủ tư cách làm người công chức một nước tự chủ.”21
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những
điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong phiên họp
đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở
miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn
định một chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chánh
cho các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã
dành cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính
trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và
dân nghèo.
6. Thiết lập các Ủy ban Tư vấn Quốc gia để
soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chánh và giáo dục.22
Chỉ trong thời gian ngắn ngủi bốn tháng (17.4-16.8) chính
phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này. Kết quả có thể được tóm tắt
như sau:
Cứu đói:
Bộ Tiếp tế do Bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải thóc
gạo từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và,
nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim giới quân phiệt Nhật cũng không cùn thi hành
chính sách độc đoán về sản xuất nông phẩm. Tuy nhiên, công việc chuyên chở gạo
vô cùng khó khăn vì những hoạt động quân sự của Hoa Kỳ nhằm cắt đứt trục giao
thông và chuyển vận của Nhật. Không quân Mỹ oanh tạc thường xuyên đường xe lửa
và đường bộ trong khi hải quân phong tỏa đường biển bằng thủy lôi. Nhiều đoàn
thuyền buồm còn bị nạn hải tặc chặn cướp khiến cho gạo tiếp tế bị thiếu hụt
trầm trọng. Nếu không nhờ sự thành lập Tổng Hội Cứu Tế Nạn Đói để phối hợp hoạt
động với những hội chẩn tế và những đoàn thanh niên cứu đói trên toàn quốc thì
số người chết vì nạn đói còn cao hơn nữa.
Chủ quyền:
Để biểu hiệu cho sự thống nhất ba miền lãnh thổ, quốc hiệu “Việt Nam” chính
thức thay thế cho quốc hiệu “An Nam” đang được sử dụng. Mặc dù hứa hẹn cho Việt
Nam độc lập, Nhật vẫn giữ lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là nhượng
địa dành cho Pháp, và toàn thể Nam bộ là thuộc địa của Pháp. Ngày 3 tháng Bảy,
chính phủ Kim thâu hồi được ba thành phố nhượng địa, nhưng cuộc điều đình về
vấn đề Nam Bộ không có kết quả. Ngày 1 tháng Tám, Thủ Tướng Kim phải đích thân
từ kinh đô Huế ra Hà Nội gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi Yuitsu, không những yêu
cầu trả ngay phần còn lại của lãnh thổ mà còn đòi luôn các công sở thuộc về phủ
Toàn quyền Pháp khi trước. Tất cả những đòi hỏi này đều được Tsuchihashi chấp
thuận, và hai bên ấn định ngày trao trả Nam bộ là 8 tháng Tám và ngày trao trả
các công sở là một tuần sau đó. Cũng trong dịp gặp Tsuchihashi, Trần Trọng Kim
đã được Nhật đồng ý chuyển giao lại các binh sĩ Việt Nam, cung cấp bốn ngàn
khẩu súng mới và đạn dược để tổ chức đội quân Bảo An.
Cải tổ:
Vốn là một nhà giáo dục, Trần Trọng Kim rất chú trọng đến việc cải tổ hệ thống
giáo dục, bắt đầu bằng việc sử dụng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy. Hoàng
Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục. Không những là một nhà khoa học mà còn là một học
giả uyên bác, đã hoạch định xây dựng một nền quốc học trên cơ sở dàn tộc và
tiến bộ, nhưng chưa kịp thi hành trong một nhiệm kỳ quá ngắn ngủi. Hệ thống và
chương trình Trung Học do ông soạn thảo23 đã được các chính phủ quốc
gia tiếp tục áp dụng với đôi chút sửa đổi trong nhiều năm về sau.
Về tư pháp, do đề nghị của Bộ trưởng Tư
pháp Trịnh Đình Thảo, thủ tướng Kim ký nghị định ân xá ngày 2 tháng Năm với
lệnh “Thả ngay tất cả các tù nhân chính trị” và ngày 8 tháng Năm thành lập ủy
Ban Soạn Thảo Hiến Pháp trên căn bản thông nhất xứ sở, các quyền tự do chính
trị, tôn giáo và nghiệp đoàn.24 Ngoài ra, miễn hay giảm mười ba hạng
thuế được thi hành dưới thời Pháp và Nhật.
Chính trị:
Với chủ trương “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của
quốc gia và gây mạnh cái tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội,”25
chính phủ Kim đã động viên được tinh thần yêu nước của toàn dân qua việc tổ chức
lần đầu tiên sau thời Pháp thuộc những buổi lễ vinh danh các anh hùng dân tộc
đã chiến thắng quân xâm lược và những nhà cách mạng đã hi sinh cho tổ quốc,
thay đổi tên đường phố và triệt hạ những tượng đài biểu thị nền đô hộ của Pháp.
Sôi nổi nhất là phong trào Thanh Niên Tiền Tuyến do Bộ trưởng Phan Anh phát
động và khuyến khích thanh niên sinh viên tham gia các sinh hoạt chính trị, văn
hóa, xã hội. Những đoàn thể thanh niên này cũng như Tổng Hội Sinh Viên là những
nơi được Việt Minh len lỏi vào và lôi cuốn được nhiều người yêu nước đi theo.
Ngoài ra, chính phủ Kim cũng thực hiện tinh thần hoà giải và đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đảng phái, không chỉ bằng việc thả hết các chính trị phạm và
kêu gọi họ hợp tác, mà còn can thiệp với Nhật để cho các thanh niên bị bắt về
tội theo Việt Minh chống Nhật cũng được phóng thích.
Những kết quả trên đây cho thấy nội các
Trần Trọng Kim, dù không phải là những chính trị gia có thành tích và kinh
nghiệm, đều là những nhà trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho
quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không
tham quyền cố vị. Trước tình thế rối ren của cách mạng tháng Tám, thủ tướng Kim
được quân đội Nhật cho biết họ “còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân
đội Đồng minh đến thay,”26 nhưng ông đã từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ
chính phủ và duy trì trật tự vì muốn tránh đổ máu và rối loạn. Trước đó, trong
chuyến đi ra Hà Nội để điều đình với Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuitsu để
lấy lại Nam Kỳ và các cơ sở chủ quyền còn lại, Trần Trọng Kim đã tìm hiểu kỹ
lưỡng về Mặt trận Việt Minh đang gây thanh thế ở miền Bắc. Ông nhận định rằng
“Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa
học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu
đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi
dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuvên truyền Việt Minh không phải là đảng
cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước
nhà, vậy nên từ Bắc chí Nam ở đâu cũng có người theo… Đảng viên cộng sản lại
biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như hội truyền bá
quốc ngữ khi mới lập thành ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội
rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả.
Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh.”27
Chính vị Khâm sai miền Bắc là Phan Kế Toại và một số bộ trưởng trong chính phủ
Kim cũng bắt đầu có thiện cảm với Việt Minh.
So sánh một lực lượng cách mạng đã hoạt
động lâu năm có ảnh hưởng trong quần chúng và đang có thời
cơ với một chính phủ trí thức yêu nước nhưng mới ra đời được bốn tháng, chưa có
đủ quyền hành, chưa kịp có quân đội, Trần Trọng Kim đã quyết định đúng khi ông
không nhờ quân đội Nhật can thiệp, một quân đội lúc đó đã mất hết tinh thần
đang chờ bị tước khí giới và giam giữ. Ông đã thực hiện phương châm “khả hành
khả chỉ” trong chính trị học Khổng giáo để biết “lúc nào nên làm, lúc nào nên
thôi.” Bởi vậy sau khi giành được chính quyền, mặt trận Việt Minh đã không
những không bắt bớ hay trả thù một người nào trong chính phủ Kim mà còn lôi
cuốn được một số bộ trưởng gia nhập mặt trận kháng chiến chống Pháp, mặc dù
trước đó đã lên án chính phủ này là “bù nhìn” và “Việt gian”. Chính phủ Kim
mang tiếng là thân Nhật, nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chánh
Pháp để nắm lấy quyền cai trị nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân
tộc. Đó là phương cách thực tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia
sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí Minh, cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó. Khoảng tháng Sáu
1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát
trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam kỳ cho Việt Nam,
ông đã nói, “Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả
quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn
của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi,
cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người làm việc
cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui.”28
Chỉ tiếc rằng vài tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì chính phủ Kim phải
ra đi, tiếp theo đó là một thời kỳ lịch sử đầy máu và nước mắt.
Nhiều người trách chính phủ Trần Trọng Kim
là nhu nhược, không dám đối phó với Việt Minh sau ngày 19.8.1945 mặc dù nhà cầm
quyền Nhật đã báo cho Thủ tướng Kim biết là “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ
trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay.”29 Thật ra, quyết định
của Bảo Đại và Trần Trọng Kim không nhờ Nhật can thiệp là đúng vì ba lý do
chính:
1. Quân đội Nhật đã đầu hàng. Không có một
lý do hay động lực nào khiến họ thấy cần phải chiến đấu để bảo vệ một chính phủ
địa phương đang thất thế. Trách nhiệm “giữ trật tự” của quân đội Nhật sẽ chỉ có
hiệu lực lúc đầu và họ sẽ phải nhượng bộ hoặc xung đột với cao trào đòi độc lập
của những đoàn thể thanh niên, sinh viên và dân chúng do Việt Minh tổ chức.
Thời gian “giữ trật tự” để chờ quân đội Đồng Minh lại rất ngắn (khoảng hai tuần
lễ) và chính phủ Trần Trọng Kim sẽ không thể chối bỏ được trách nhiệm về những
cuộc đổ máu của dân Việt Nam do quân Nhật gây ra.
2. Việt Minh đã thành công lớn trong chiến
dịch tuyên truyền là được sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Những lời tuyên bố của Tổng
thống Roosevelt chỉ trích chế độ thực dân của Pháp, sự thành lập “bộ đội
Việt-Mỹ” từ chiến khu Tân Trào với sự hiện diện của các sĩ quan OSS, và tấm
hình tướng “Cọp Bay” Chennault ký tặng Hồ Chí Minh ở Côn Minh đã được Việt Minh
sử dụng và thuyết phục được đại đa số nhân dân ủng hộ. Luật sư Trịnh Đình Thảo,
Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Kim, còn được tin là “đại úy Landsdale, phụ
tá của thiếu tá Archimedes Patti, trưởng đoàn OSS ở vùng Đông Nam Á… thay vì
tiếp tế cho những nhóm quân của Pháp còn đang chiến đấu (chống Nhật) trong rừng
miền biên giới, lại thả dù vũ khí và đạn dược xuống cho Việt Minh để trang bị
cho một tiểu đoàn đầu tiên, và phái Aaron Bank tới huấn luyện cho bộ đội của Hồ
Chí Minh.”30
3. Việt Minh đã chiếm được các cơ sở chính
quyền, Hồ Chí Minh đã thành lập chính phủ lâm thời, Khâm sai Bắc Bộ là Phan Kế
Toại đã từ chức, đoàn Thanh niên Tiền tuyến và lính Bảo An nhiều người đã đi
theo Việt Minh. Thư của Bảo Đại gửi cho Truman và de Gaulle kêu gọi ủng hộ
chính nghĩa quốc gia đều không được trả lời. Trong tình trạng thất thế và cô
đơn và trước khí thế sôi sục của “cách mạng”, Bảo Đại cùng hoàng gia có thể bị
lâm vào số phận của Louis XVI sau Cách mạng Pháp 1789 hay Nicholas II hồi Cách
mạng Nga 1917. Quyết định thoái vị của Bảo Đại là một quyết định sáng suốt,
thức thời, tránh được đổ máu vô ích của nhân dân nếu ông nhờ Nhật dẹp Việt
Minh.
Trong một thời gian quá ngắn phục vụ đất
nước, chính phủ Trần Trọng Kim không mắc phải sai lầm nào đáng bị chỉ trích,
trái lại, đã thực hiện được nhiều thành tích đáng kể, nhất là việc lấy lại được
miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành việc thống nhất đất
nước như đã nói ở trên. Tất cả những điều đó cho thấy Bảo Đại và chính phủ Trần
Trọng Kim không phải là “bù nhìn” của Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa
hoàn toàn, vẫn là một thực tại chứ không phải “bánh vẽ”, nhất là so với những
điều kiện của một “quốc gia tự do” và viễn tượng thống nhất mơ hồ như trong
hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký kết với Cao ủy
Bollaert.
Sai lầm chính trị, đúng ra là một nhược
điểm, đáng nói đến là Trần Trọng Kim đã không thực hiện được sách lược “bắt cá
hai tay” của Thái Lan mà Pridi Banomyong đã chia sẻ. Điều đó có nghĩa là trong
khi chính phủ Kim giữ thái độ trung lập chính trị đối với Nhật thì đáng lẽ đã
phải có những nhân vật chính trị khác đi với Anh, Mỹ để chống Nhật và chuẩn bị
thay thế chính phủ Kim khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng khác với Thái Lan, Việt
Nam còn phải đối phó với Pháp, khi đó cũng là một thành phần của Đồng Minh,
đang quyết tâm trở lại Đông Dương. Công việc vận động Đồng Minh lại rất khó
khăn vì Anh là một đế quốc tất nhiên ủng hộ Pháp chinh phục lại các thuộc địa
cũ, trong khi mối quan tâm chính của Hoa Kỳ lúc đó là ngăn chặn ảnh hưởng của
Liên Xô ở Âu châu. Dù sao, đó cũng chính là lỗi lầm của các đảng phái
quốc gia nói chung, không có một tầm nhìn rộng rãi về chính trị thế giới sau
Thế chiến II, không hợp tác được với nhau để có một sách lược vận động thích
hợp với Hoa Kỳ và quốc tế —kể cả những cuộc đối thoại với Pháp— cho một nước
Việt Nam không cộng sản, không phải chỉ trong thời gian của chính phủ Trần
Trọng Kim mà luôn cả những cơ hội về sau.
Cuộc cách mạng 19 tháng Tám 1945 của Mặt
trận Việt Minh diễn ra chỉ có mấy ngày trước khi quân đội Tưởng Giới Thạch vào
Việt Nam để tước khí giới quân đội Nhật và cũng để thiết lập một chính phủ
chống cộng sản thân Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Trước viễn tượng rất đáng lo ngại
đó, Hồ Chí Minh vội vã thành lập một Chính phủ Lâm thời mười lăm người trong đó
có năm người không phải là đảng viên cộng sản.31 Vua Bảo Đại thoái
vị ngày 25 tháng Tám và trong hai tờ chiếu cho quốc dân và hoàng tộc đã nhắc
lại một câu nói lịch sử: “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một
nước nô lệ.”32 Do lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cựu hoàng Bảo
Đại nhận lời làm “Cố vấn Tối cao” (với tên công dân là Vĩnh Thụy) trong Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cuối tháng Tám, tướng Lư Hán, tư lệnh quân
đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng cùng tướng Tiêu Văn, cố vấn chính trị, bắt đầu chuyển
quân vào Việt Nam. Các đạo quân 93 và 60 của Lư Hán từ Vân Nam kéo sang qua ngả
Lào Cai, đi dọc theo thung lũng sông Hồng tới Hà Nội, Vinh, Đà Nẵng. Các đạo
quân 62 và 53 của Tiêu Văn từ Quảng Tây vào chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn và các địa
điểm chủ yếu dọc bờ biển Đông Bắc tới Hải Phòng. Tổng số quân đội chiếm đóng
trước sau khoảng 180,000 người. Trên đường tới Hà Nội, họ tước khí giới của dân
quân Việt Minh ở những địa phương họ đi qua và giao quyền kiểm soát những nơi
này cho các đảng quốc gia Việt Nam lúc đó chia làm hai phe: VNQDĐ (Vũ Hồng
Khanh) và Đại Việt (Nguyễn Tường Tam) theo Lư Hán, VNCMĐMH (Nguyễn Hải Thần)
theo Tiêu Văn. Trước tình thế ấy, Võ Nguyên Giáp gấp rút gặp “AI” Patti để cảnh
báo rằng đoàn quân Vân Nam là “bọn tham tàn và vô kỷ luật nhất trong quân đội
Tưởng Giới Thạch,” và Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang chuẩn bị lật đổ chính phủ
lâm thời của Việt Nam để thay thế bằng “những kẻ phản động.” Ngày 1 tháng Chín,
Hồ Chí Minh mời Patti tới Bắc Bộ Phủ để họp cùng với Võ Nguyên Giáp và Hoàng Minh
Giám. Trong buổi họp này, Patti được yêu cầu chuyển tới chính phủ Mỹ mối quan
tâm nghiêm trọng của chính phủ Việt Nam trước hiểm họa của một nạn đói thứ hai
ở miền Bắc do vấn đề tiếp tế lương thực quá lớn cho đoàn quân Trung Hoa. Nhân
dịp này, các nhà lãnh đạo cộng sản cũng đề nghị thiết lập quan hệ thương mại
với Hoa Kỳ và kêu gọi giới kinh doanh Mỹ tới đầu tư. Đây là những cố gắng trong
cơn tuyệt vọng vì lúc này Hoa Kỳ đã không còn chú ý tới Đông Dương và chính
Patti cũng đang bị cơ quan OSS nhận xét là quá thân thiện đối với Việt Minh.33
Khoảng giữa tháng Chín, VNCMĐMH và VNQDĐ
đều đã lập được những trụ sở riêng trong thành phố Hà Nội và bắt đầu tung chiến
dịch tuyên truyền mạnh mẽ trong dân chúng, tố cáo Việt Minh là cộng sản dưới
quyền chỉ đạo của Nga Sô. Việt Minh phản công bằng việc tuyên dương các hoạt
động chống Pháp và chống Nhật của mình, đồng thời chỉ trích các lãnh tụ “Việt
Cách” (VNCMĐMH) và “Việt Quốc” (VNQDĐ) là phản động. Trong khi đó, Hồ Chí Minh
cho tổ chức “Tuần lễ Vàng” và kêu gọi dân chúng đóng góp vàng hay các món đồ
trang sức bằng vàng để chính phủ sử dụng vào công cuộc cứu nước. Patti cho biết
“số tiền thu được lớn hơn rất nhiều so với số tiền đã được công bố và ít
nhất là hai phần ba số đó đã chui vào túi người Trung Hoa qua việc mua khí giới
và các ân huệ về chính trị. Điều này được Võ Nguyên Giáp xác nhận khi ông viết
vào năm 1975 là số tiền quyên được là “20 triệu đồng và 370 ki-kô vàng”.”34
Dù không có bằng chứng rõ rệt, việc mua bán súng ống và hối lộ các tướng Trung
Hoa đều là chuyện dễ hiểu, và được chính Hồ Chí Minh xác nhận. “Al” Patti dẫn
lời Hồ Chí Minh nói về Tuần lễ Vàng “không phải chỉ có nghĩa là một sự đóng góp
cho quĩ quốc phòng mà còn có một ý nghĩa chính trị quan trọng.” Patti giải
thích rằng “Ông (Hồ) nói thế là có ngụ ý cho biết một phần số tiền có thể phải
dùng để xoa dịu lòng tham của (tướng) Tàu.”
Ngay sau đó, Patti nhắc lại lời ông Hồ than
phiền với ông rằng Tuần lễ Vàng chỉ là “một trò hề” vì “mỗi đồng xu” đều vào
tay người Tàu, và phần nhiều số vàng là những đồ trang sức nhỏ do các gia đình
nghèo đóng góp còn những nhà giàu và địa chủ người Việt và người Hoa chỉ đóng
góp tượng trưng.35 Việc hối lộ được diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau. Theo Trần Trọng Kim, Lư Hán và Tiêu Văn được một số vàng lớn mới
đứng ra dàn xếp việc thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến trước kỳ họp
Quốc hội ngày 2 tháng Ba.36 Theo Duiker thì Hồ Chí Minh chỉ thị cho
nhân viên cung cấp thuốc phiện cho Lư Hán.37 Stanley Kamow thì cho
biết Lư Hán được tặng một bộ khay đèn hút thuôc phiện bằng vàng38 về
khí giới, Việt Minh mua được cho Quân đội Nhân dân 3,000 khẩu sung trường, 50
súng tự động, 600 súng liên thanh, 100 súng cối do Mỹ chế tạo, cộng với kho vũ
khí do Pháp và Nhật để lại gồm 31,000 súng trường, 700 súng tự động, 36 súng hạng
nặng và 18 xe tăng.39
Ngoài ra, Việt Minh cũng biểu dương lực
lượng dân chúng để làm áp lực chính trị đối với giới lãnh đạo ở Trùng Khánh.
Khi tướng Hà Ứng Khâm, Tham mưu trưởng quân đội Trung Hoa, đến Hà Nội hồi tháng
Mười để thúc giục Lư Hán ngăn chặn Việt Minh củng cố quyền hành, chắc chắn ông
đã không thể đánh giá thấp Việt Minh trước sự “đón tiếp” của trên 300.000 người
với một rừng cờ và biểu ngữ hoan hô tình hữu nghị Việt-Hoa, hoan hô Việt Minh
và Hồ Chủ tịch.
Các tướng Lư Hán và Tiêu Văn, mặc dù không
ưa nhau, đều được Việt Minh biệt đãi và trước những cơ hội trục lợi to lớn
trước mắt, đều không muốn để cho xảy ra một tình hình rối loạn mà họ biết rằng
các lãnh tụ của phe quốc gia không thể kiểm soát được. Do đó, họ bỏ ý định lật
đổ chính quyền cộng sản và bắt đầu áp lực các lãnh tụ quốc gia phải liên kết
với mặt trận Việt Minh. Nhiều cuộc gặp gỡ đã được diễn ra và đến cuối
tháng Mười, Nguyễn Hải Thần phải đồng ý với Hồ Chí Minh về việc
thành lập tân chính phủ trong đó có đại diện đảng phái quốc gia. Sự thỏa hiệp
này bị VNQDĐ và các lãnh tụ quốc gia khác phản đối kịch liệt. Họ nhắc đến những
kinh nghiệm liên hiệp với cộng sản của VNCMĐMH khi còn ở Liễu Châu và tố giác
âm mưu thao túng của ĐCSĐD. Trước tình thế ấy, ngày 11 tháng Mười Một, ĐCSĐD
tuyên bố tự giải tán để được thay thế bằng Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Các Mác ở
Đông Dương, với lý do là “để tránh tất cả những hiểu lầm trong nước và ngoài
nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng dân tộc.”40 Trên thực
tế, ĐCSĐD chỉ rút vào bóng tối và tiếp tục điều khiển mặt trận Việt Minh cho
đến khi tái xuất hiện năm 1951 với tên mới là Đảng Lao Động Việt Nam.
Các đảng phái quốc gia vẫn không ngừng công
kích Việt Minh bằng báo chí và những cuộc biểu tình. Ngày 19 tháng Mười Một,
tướng Tiêu Văn lại triệu tập một phiên họp và ép buộc các phe phải ký một bản
thoả thuận trên nguyên tắc về việc thành lập chính phủ liên hiệp, chương trình
hoạt động chung và thống nhất quân đội. Nhưng sau nhiều ngày bàn cãi gay go, Hồ
Chí Minh và các lãnh tụ quốc gia vẫn bất đồng ý kiến về thành phần chính phủ và
ngày tổ chức bầu cử quốc hội. Nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ do các nhóm
quốc gia tổ chức đã đụng độ đến đổ máu với phe Việt Minh. Có tin nói Võ Nguyên
Giáp và Trần Huy Liệu bị VNQDĐ bắt cóc rồi thả ra để cảnh cáo còn Trần Văn Giàu
thì bị ám sát hụt. Tình hình Hà Nội rất căng thẳng có thể bùng nổ thành nội
chiến bất cứ lúc nào. Lư Hán và Tiêu Văn lại phải can thiệp, đòi hỏi hai bên
phải giải quyết bằng đàm phán. Ngày 25 tháng Chạp, hai bên thỏa thuận thành lập
Chính phủ Liên hiệp Lâm thời vào ngày 1 tháng Giêng còn cuộc bầu cử quốc hội
được hoãn tới ngày 6 tháng Giêng, 1946. Trên tổng số 350 đại biểu, Việt Minh
bằng lòng dành 20 ghế cho VNCMĐMH và 50 ghế cho VNQDĐ mặc dù hai đảng này không
tham gia bầu cử. Chiến dịch tuyên truyền và biểu tình chống đối lẫn nhau vẫn
tiếp tục trong khi hai bên tranh luận gay go về thành phần tân chính phủ, quốc
kỳ, quốc ca và thông nhất quân đội. Giữa lúc này, tướng Tiêu Văn bị triệu hồi
về nước khiến cho phe quốc gia bị mất chỗ dựa nên phải chấp nhận thoả hiệp.
Ngày 2 tháng Ba, Quốc Hội họp phiên khai
mạc cũng là ngày chính phủ lâm thời được thay thế bằng chính phủ Liên Hiệp
Kháng Chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch.
Vĩnh Thụy (Bảo Đại) tiếp tục làm cố vấn Tối cao. Chính phủ có mười Bộ chia cho
ba phe: Việt Minh và Đảng Dân Chủ (bốn Bộ); VNCMĐMH và VNQDĐ (bốn Bộ); không
Đảng Phái (hai Bộ). Ngoài ra còn có Kháng chiến ủy viên Hội do Võ Nguyên Giáp
làm Chủ tịch và Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch.41 Thỏa hiệp 25 tháng
Chạp cho thấy sự nhượng bộ của Việt Minh là một tính toán cần thiết để cho
chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có hình thức hợp pháp với tư cách một chính
phủ liên hiệp các đảng -phái và một quốc hội do dân bầu. Ngoài ra, Việt Minh
còn có thêm thì giờ tăng cường binh lực và có thể huy động quần chúng dễ dàng
hơn trước nguy cơ tái xâm lược của Pháp.42 Quả thật trong những ngày
đầu năm 1946, những nhà lãnh đạo cộng sản rất lo ngại về cường độ chống đốì của
các đảng phái quốc gia được chính phủ Tưởng Giới Thạch ủng hộ trong khi Pháp
đang chuẩn bị gấp rút việc tái chiếm Việt Nam. Một mặt quân đội Anh hết lòng
giúp Pháp giải tán các lực lượng chống đối ở trong Nam; mặt khác, Trung Hoa
đang mặc cả với Pháp về các điều kiện cho Pháp đem quân vào thay thế ở miền
Bắc. Trước hiểm họa sắp xảy ra, Hồ Chí Minh thấy cần phải ưu tiên giải quyết
tình hình nội bộ cho yên ổn để có thể tập trung các nỗ lực vào việc đối phó với
Pháp.
Ở đây cần phải nhắc đến một sự kiện đáng lẽ
đã xoay chuyển lịch sử sang một tình thế khác. Bảy giờ sáng ngày 23 tháng Hai,
Hồ Chí Minh điện thoại cho Bảo Đại báo tin sẽ tới gặp ông vì chuyện gấp. Vừa
tới nơi, ông Hồ liền cho biết ý định yêu cầu Bảo Đại làm Chủ tịch thay cho ông
và lập một chính phủ mới. Theo lời Bảo Đại, ông Hồ than thở, “Tôi không còn
biết làm cách nào hơn. Tình thế đang trong cơn nguy kịch. Tôi biết rõ rằng Pháp
không muốn thương lượng với tôi mà Đồng Minh thì không tin cậy tôi. Ai ai cũng
thấy tôi quá ‘đỏ.’ Tôi yêu cầu Ngài hãy hi sinh lần thứ nhì và trở lại cầm
quyền.” Bảo Đại muốn có chút thì giờ suy nghĩ. Ông cấp tốc tham khảo với Trần
Trọng Kim cùng một số người thân và tất cả đều nhận xét là trong trường hợp này
Hồ Chí Minh thành thật vì ông không muốn ký bản thoả hiệp đang điều đình với
Sainteny, đại diện chính phủ Pháp. Mười giờ sáng, ông Hồ còn điện thoại thúc
giục Bảo Đại nhận lời. Trong khi đó, một đại diện của Bảo Đại tiếp xúc với
Thiếu tá Buckley của OSS và được ông này cho biết ông không ngạc nhiên về đề
nghị của ông Hồ và hứa rằng người Mỹ sẽ giữ thái độ trung lập trong vấn đề nội
bộ này của Việt Nam. Mười hai giờ trưa, Bảo Đại báo tin cho Hồ Chí Minh rằng
ông nhận lời. Đến một giờ chiều, ông Hồ mời Bảo Đại tới gặp nhưng để nghe ông
rút lại lời đề nghị, “Xin Ngài hãy quên đi tất cả những điều tôi nói với Ngài
hồi sáng. Tôi không có quyền chối bỏ trách nhiệm vì tình thế khó khăn. Trao lại
quyền cho Ngài bây giờ là một sự phản bội về phần tôi. Xin Ngài tha lỗi cho tôi
trong lúc nhu nhược đã nghĩ đến việc trút gánh nặng của tôi lên vai Ngài. Tôi
đã tính ra đi chính là vì sự chống đối của những đảng phái quốc gia về bản thoả
hiệp đang được chuẩn bị ký với Pháp.” Theo nhận xét của Bảo Đại, sự thay đổi
quyết định của Hồ Chí Minh vào giờ chót là do việc Tiêu Văn và Lư Hán đã đồng ý
thuyết phục phe quốc gia tham gia vào chính phủ liên hiệp, và như vậy sẽ cùng
chịu trách nhiệm về việc ký hiệp ước với Pháp.43
Ngày 28 tháng Hai 1946, Trung Hoa ký với
Pháp bản thoả ước Trùng Khánh, đồng ý cho quân đội viễn chinh Pháp tới thay thế
quân đội Trung Hoa ở miền Bắc Việt Nam để đổi lấy việc Pháp trả lại các đặc
quyền và nhượng địa đã chiếm đoạt từ thế kỷ trước. Ngoài ra, Trung Hoa cũng
được Pháp dành cho một số quyền lợi về kinh tế ở Việt Nam. Đại tướng Leclerc,
tư lệnh Đoàn quân Viễn chinh Pháp tại Sàigòn, lập tức ra lệnh cho chiến hạm chuyển
quân ra Bắc, dự liệu sẽ tới cảng Hải Phòng ngày 6 tháng Ba. Để tránh đụng độ
quân sự, Hồ Chí Minh vội chấp thuận các điều khoản trong Hiệp định Sơ bộ, theo
đó Việt Nam được nhìn nhận là một nước “tự do” trong Liên Bang Đông Dương và
Liên Hiệp Pháp, có chính phủ riêng nhưng chỉ được chia một phần quyền cai trị
về đối nội. Việt Nam bằng lòng cho 15,000 quân Pháp tới thay thế quân Trung
Hoa. Pháp đồng ý tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba miền
đất nước. Ngày ký Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường
Tam không chịu tham dự. Phó Chủ tịch Quân ủy Vũ Hồng Khanh phải ký tên cùng với
Hồ Chí Minh trên bản hiệp định. Mặc dù đã có sự chia sẻ trách nhiệm như vậy, dư
luận đã tỏ ra bất mãn và các đảng phái quốc gia chỉ trích Hồ Chí Minh rất nặng,
thậm chí lên án ông là “bán nước cho Pháp.” Ngày hôm sau, Việt Minh phải tổ
chức một buổi mít- tinh trước Nhà Hát Lớn thành phố để Chủ tịch Hồ Chí Minh
giải thích. Ông kết luận bằng một lời thề: “Tôi thà chết chứ không bao giờ bán
nước.”44
Trong khi các lực lượng quốc gia bị suy yếu
vì quân đội Trung Hoa rút về nước, các tướng lãnh Trung Hoa nhân dịp này ngoài
chuyện vơ vét của cải còn trục lợi bằng việc bán lại cho Việt Minh một số vũ
khí và đạn dược tịch thu của Nhật và một số khác của Mỹ mà họ đang sử dụng. Vì
không còn bị kiềm chế bởi quân đội Tưởng Giới Thạch và đã tạm thời hòa hoãn
được với Pháp, phe cộng sản được rảnh tay thanh trừng và tiêu diệt các phe phái
đối lập. Trước hết là cô lập hoá Bảo Đại, người có triển vọng được sự hỗ trợ
của quốc nội và quốc tế để trở lại vai trò lãnh đạo. Vào giữa tháng Ba, Hồ Chí
Minh yêu cầu Bảo Đại cầm đầu một phái đoàn chính phủ sang thăm viếng xã giao
Thống chế Tưởng Giới Thạch tại thủ đô Trùng Khánh, Tổng Thống Trung Hoa đã dành
cho Bảo Đại một sự biệt đãi nhưng rất lạnh nhạt với phái đoàn chính phủ. Ngày
15 tháng Tư, Bảo Đại cùng phái đoàn ra phi trường trở về nước. Trước khi lên
máy bay, ông được trao cho một bức điện ngắn của Hồ Chí Minh, “Mọi chuyện bên
nhà đều tốt đẹp, xin Ngài cứ thong thả. Việc Ngài ở lại Trung Hoa rất có lợi
ích cho nước nhà. Xin Ngài đừng bận tâm, tôi sẽ báo tin ngay để Ngài rõ khi nào
thuận tiện cho Ngài trở về nước…” Bảo Đại than phiền rằng ông bị bỏ lại phi
trường một mình, không một đồng xu dính túi và hành lý thì đã đi theo phi cơ về
Hà Nội. Ông may mắn gặp được một luật sư Trung Hoa đã từng du học và hành nghề
ở Pháp mời về nhà ở. Trong thời gian này ông cũng có dịp quen biết với Đại
Tướng Long Vân, thượng cấp của Lư Hán. Một tháng sau, ông được Tổng Bí thư Quốc
Dân Đảng Trung Hoa mời về cư ngụ tại Trùng Khánh. Đến tháng Chín, khi Tưởng
Giới Thạch dời đô về Nam Kinh, Bảo Đại được mời đi theo nhưng ông quyết định
sang trú ngụ ở Hong Kong.45
Trong thời gian Bảo Đại ở Trung Hoa, mối
mâu thuẫn quốc gia-cộng sản càng ngày càng trầm trọng. Các lãnh tụ VNQDĐ,
VNCMĐMH và Đại Việt tiếp tục chống đối Hiệp định Sơ bộ. Nhiều cuộc ám sát, bắt
cóc, thủ tiêu lẫn nhau đã xảy ra. Nguyễn Tường Tam từ chối cầm đầu phái đoàn
sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau cùng với Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng được cử
đi thay. Việt Minh quyết định phát động chiến dịch tổng tấn công các lực lượng
quốc gia. Trước khi tung ra chiến dịch này, Việt Minh thành lập Mặt Trận Liên
Hiệp Quốc Dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt, nhằm lôi cuốn sự ủng hộ của mọi thành
phần dân chúng. Chiến dịch do Võ Nguyên Giáp (khi đó là Bộ trưởng Nội Vụ) chỉ
huy, bắt đầu ngay sau khi phái đoàn Hồ Chí Minh lên đường ngày 31 tháng Năm.
Các trụ sở của VNQDĐ và VNCMĐMH bị triệt hạ và các bằng chứng thủ tiêu cán bộ
Việt Minh được phơi bày trước công chúng. Các chiến khu của những đảng phái
quốc gia này ở trên hai mươi tỉnh miền Bắc và miền Trung lần lượt bị tiêu diệt.
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam đều phải bỏ chạy sang Tàu.
Nhiều lãnh tụ nổi tiếng khác như Trương Tử Anh (Đại Việt Quốc Dân Đảng), Lý
Đông A (Đại Việt Duy Dân), Khái Hưng (VNQDĐ) đều mất tích. Đáng chú ý là trong
chiến dịch này có sự tham gia của Pháp, một phần vì cũng muốn loại trừ những
phần tử quốc gia chống Pháp hăng hái hơn cả Việt Minh và đang phá hiệp định sơ
bộ. Như Philippe Devillers đã nhận xét, “Sainteny không ưa gì một số phần tử
chống Pháp mạnh mẽ hơn trong hàng ngũ quốc gia, và trong một bản phúc trình về
Paris ông đã nhận định rằng nếu những nhà lãnh đạo mới của Việt Nam (như Hồ Chí
Minh) phải lưu vong thì có thể họ sẽ về nước với sự hỗ trợ của Pháp để trở
thành ‘những đồng minh tốt nhất của chúng ta’.”46 Nhận xét của
Sainteny về giới lãnh đạo cộng sản quá chủ quan nhưng cũng nói lên được khía
cạnh chống Pháp cực đoan của những lãnh tụ quốc gia hồi đó.
Tại miền Nam, chiến dịch diệt trừ đối lập
cũng được thi hành song song với miền Bắc ngay từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Những thủ lãnh Đệ tứ Quốc tế như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu,47 Lương
Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch đều bị thủ tiêu. Nhiều lãnh tụ chính
trị không cộng sản của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất (thành lập ngày 14 tháng
Tám) như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, và hai vợ chồng bác sĩ
Hồ Vĩnh Ký cũng bị giết, mặc dù đã kết hợp với Việt Minh để lập thành ủy Ban
Hành Chánh Nam Bộ (4 tháng Chín). Bùi Quang Chiêu, lãnh tụ đảng Lập Hiến, năm
đó đã 72 tuổi và không còn hoạt động chính trị, bị bắt cùng bốn người con trai
đem đi thủ tiêu. Cuộc truy lùng và diệt trừ đối lập ở miền Nam còn tiếp tục sau
khi các lực lượng đảng phái quốc gia ở miền Bắc đã bị quét sạch. Đáng kể nhất
là những vụ tàn sát các chức sắc, tín đồ và binh sĩ của đạo Cao Đài và Phật
giáo Hoà Hảo. Theo tài liệu của hai tôn giáo này, tổng số người bị giết lên đến
hai chục ngàn người. Giáo chủ Phật giáo Hoà Hảo Huỳnh Phú Sổ bị bắt cóc và thủ
tiêu năm 1947. Phối sư Thượng Vinh Thanh Trần Quang Vinh, Tổng Tư lệnh quân đội
Cao Đài, bị bắt tháng Mười 1945 nhưng trốn thoát tháng Giêng 1946, sau đó tham
gia vào các chính phủ Nguyễn Văn Xuân (1948), Ngô Đình Diệm (1954) và Thượng
Hội đồng Quốc gia (1965). Theo tin tức của thân nhân tị nạn ở Hoa Kỳ, Phôi sư
Trần Quang Vinh bị chính quyền cộng sản bắt và xử tử vào tháng Chín 1975.
Chiếc tuần dương hạm Dumont d’Urville đưa
Hồ Chí Minh từ Pháp về tới bến Hải Phòng ngày 20 tháng Mười 1946 và ngày hôm
sau ông đáp xe lửa về Hà Nội. Ngày 28, Quốc Hội nhóm họp nhưng chỉ có 291 trên
tổng số 444 đại biểu có mặt. Trong số 70 đại biểu của VNQDĐ và VNCMĐMH chỉ có
37 người hiện diện. Khi một đại biểu hỏi lý do vắng mặt của những nguời đối
lập, Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận trả lời từ hàng ghế chính quyền là “họ đã
bị bắt với sự chấp thuận của ủy ban Thường trực về những tội thường phạm”.49
Sau đó, người đặt câu hỏi và 34 đại biểu đối lập biến mất luôn, chỉ còn lại hai
người. Khi quốc hội bỏ phiếu chấp thuận bản Hiến pháp đầu tiên ngày 8 tháng
Mười Một, chỉ còn 242 đại biểu hiện diện với số phiếu 240 trên 2.50
Quốc hội cũng chấp thuận danh sách một chính phủ mới gồm mười hai bộ trưởng,
chín thứ trưởng và hai quốc vụ khanh. Không có một người nào thuộc đảng đối
lập, chỉ có hai người không đảng phái.51 Đáng chú ý là chức Cố vấn
tối cao vẫn còn giữ cho Vĩnh Thụy (Bảo Đại) mặc dù ông đang ở Trung Hoa và được
ông Hồ yêu cầu ở lại bên đó. Mục đích việc này là để cầm chân Bảo Đại cho khỏi
vội nhảy sang hàng ngũ đối lập đồng thời cũng để cho chính phủ mới tiếp tục có
tư cách danh chính ngôn thuận đối với quốc tế. Đây cũng là chính phủ kháng
chiến đầu tiên vì chỉ hơn một tháng sau, toàn bộ chính phủ rút ra khỏi thủ đô
Hà Nội khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ (19.12.1946).
Cuộc tranh chấp quốc gia-cộng sản, như
trình bày trên đây, cho thấy rằng chủ nghĩa cộng sản, tự bản chất và phương
pháp thực hiện, không thể chấp nhận sống chung hay hợp tác với các chủ thuyết
khác. Trong một tài liệu kỷ niệm cuộc cách mạng Yên Bái ngày 9 tháng Hai 1931,
Đảng Cộng sản nhìn nhận rằng “làn sóng cách mệnh nổi lên bắt đầu từ cuộc bạo
động ở Yên Bái do Việt Nam Quốc Dân Đảng tổ chức và chỉ huy,” nhưng phê bình
VNQDĐ không có khả năng tổ chức và yếu kém về lực lượng. Đảng hô hào:
Hỡi anh chị em công nông, ta nên lấy ngày 9
tháng Hai làm một ngày kỷ niệm cách mạng Đông Dương. Nhưng chớ hiểu lầm rằng ta
kỷ niệm Yên Bái là ta tán đồng quốc gia chủ nghĩa và hoàn toàn kính phục những
người lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng đâu. Ta nên nhân dịp ngày kỷ niệm này
để giãi tỏ trước mặt quảng đại quần chúng công nông trong toàn xứ biết rằng
cộng sản chủ nghĩa với quốc gia chủ nghĩa là một trời một vực và không bao giờ
hai chủ nghĩa ấy có thể dung hợp được với nhau.52
Những hình thức liên minh hay thỏa hiệp của
đảng cộng sản với các đảng phái quốc gia, do đó, chỉ là những bước đi chiến
thuật để tiến đến mục tiêu tối hậu là đồng hóa hay tiêu diệt mọi thành phần
khác biệt hay đối lập. VNQDĐ và VNCMĐMH là những đảng cách mạng đã có nhiều
kinh nghiệm hoạt động với Hồ Chí Minh và các đảng viên cộng sản Việt Nam ở
Trung Hoa. Bởi vậy, khi theo đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa trở về nước năm
1945, hai đảng quốc gia này đã tin tưởng có thể giành được chính quyền và cương
quyết không chịu hợp tác với Việt Minh. Tuy nhiên, do những nhược điểm về tổ
chức và lãnh đạo và cũng do áp lực của tướng lãnh Trung Hoa, cả hai đảng rốt
cuộc vẫn phải chấp nhận tham gia vào chính phủ liên hiệp và quốc hội của Việt
Minh. Trong cuộc tranh chấp quyền hành với Việt Minh, các đảng phái quốc gia
hiểu biết rất rõ khả năng và kế hoạch nguy hiểm của đối thủ nhưng không có điều
kiện và phương tiện để đôi phó.
Trước hết, không ai thấy rõ lực lượng quân
sự của VNQDĐ và VNCMĐMH như thế nào. Lực lượng này chắc không quá mấy trăm đảng
viên đã được huấn luyện quân sự ở Trung Hoa cùng với một số chí nguyện quân mới
tuyển mộ trước và sau ngày trở về nước. Kinh nghiệm tổ chức và chiến đấu chưa
có, kinh nghiệm hành chánh cũng không, tài chánh và vũ khí cũng chẳng có được bao
nhiêu. Một số cơ sở địa phương chiếm giữ được trên đường từ biên giới Việt-Hoa
về Hà Nội và một số chiến khu lập được sau này đều còn lỏng lẻo sơ sài, không
đủ sức chống chọi với lực lượng Việt Minh. Thiệt thòi nhất là số vũ khí đáng lẽ
được các tướng lãnh Trung Hoa cung cấp như đã sắp đặt trước thì lại bị họ đem
bán cho Việt Minh.
Ngoài ra, VNQDĐ và VNCMĐMH là những đoàn
thể cách mạng lưu vong ở Trung Hoa đã lâu và không có cơ sở hoạt động ở trong
nước, do đó không có hậu thuẫn của nhân dân. Riêng việc đi theo quân Tàu về để
giành lấy chính quyền đã là một bất lợi chính trị rất lớn cho hai đảng này. Hồ
Chí Minh trước đó cũng đã nhờ Trương Phát Khuê và Tiêu Văn giúp cho về nước với
danh nghĩa VNCMĐMH mà Việt Minh là một thành viên, nhưng ông đã khéo tẩy xóa
được hình tích đó. Tổ chức chính trị đáng kể đang hoạt động ở trong nước lúc
bấy giờ là đảng Đại Việt lại chia thành hai ba nhóm và không có thực lực để
tiếp tay cho hai đảng quốc gia từ hải ngoại. Tất cả những đảng phái này, mặc dù
hợp tác với nhau để cùng đối phó với đảng cộng sản, vẫn có những tị hiềm giữa
cá nhân các lãnh tụ, vì vậy không có được một bộ máy chỉ đạo nhất trí và có kỷ
luật như mặt trận Việt Minh. Chính vì sự chia rẽ giữa các lãnh tụ quốc gia mà
VNCMĐMH đã gần như tan rã từ khi còn ở Liễu Châu, Trung Quốc, để cho Hồ Chí
Minh được Trương Phát Khuê giao cho tổ chức lại VNCMĐMH và có cơ hội củng cố
lực lượng Việt Minh ở trong nước.
Lòng yêu nước của các lãnh tụ quốc gia thực
sự rất cao, thể hiện tinh thần độc lập truyền thống của dân tộc. Dưới thời Pháp
thuộc, trước và sau khi đảng cộng sản ra đời, đã có biết bao nhiêu nhà cách
mạng yêu nước bị tù đày, hành hạ và xử tử. Nhiều nhà trí thức đáng lẽ dùng mảnh
bằng của mình để hưởng vinh hoa phú quí thì lại chọn con đường gian khổ tranh
đấu cho quyền làm dân của một nước độc lập và tự do. Tuy nhiên, chính cái đặc
tính tự do và đa nguyên (nhưng thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không
cộng sản đã khiến các lãnh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có đủ khả
năng đối phó với đảng cộng sản về cơ sở lý thuyết và phương pháp hành động. Các
lãnh tụ của hai đảng nòng cốt hồi đó là VNQDĐ và VNCMĐMH đều ở Trung Quốc đã
quá lâu, khả năng và tầm nhìn chính trị rất giới hạn và lệ thuộc vào Trung
Quốc, nên khi cơ hội đến tay thì chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của đám
tướng lãnh tham nhũng Tiêu Văn và Lư Hán. Một thí dụ điển hình là Nguyễn Hải
Thần, người được Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp cho về nước để lãnh đạo một nước
Việt Nam không cộng sản. Mọi người Việt Nam yêu nước năm 1945 đều thất vọng đối
với nhà cách mạng lão thành này qua hình ảnh của một ông già không nói rành
tiếng Việt và bị đồn là hút thuốc phiện. Không còn mấy ai biết đến một Nguyễn
Hải Thần anh dũng đã từng ám sát hụt toàn quyền Albert Sarraut bằng lựu đạn năm
1912.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều
nước trên thế giới, được huấn luyện ỏ Nga, tranh đấu lâu năm với các đảng Xã
Hội và Cộng sản Pháp, rồi đại diện cho Ban Phương Đông của Nga để tổ chức và
phối hợp các hoạt động cộng sản ở Đông Nam Á và Trung Hoa, thường xuyên điều
động các hoạt động ở Việt Nam và đã trở về nước lập cơ sở cho mặt trận Việt
Minh năm 1941. Trong thời gian một năm ở Liễu Châu, từ sau khi được Trương Phát
Khuê thả tự do cho đến ngày trở về Việt Nam nhân danh VNCMĐMH (tháng Chín
1944), Hồ Chí Minh lại thường lui tới Phòng Thông Tin Chiến tranh (OWI) của Hoa
Kỳ để tham khảo sách báo và bắt liên lạc với cơ quan tình báo OSS. Nhờ thành
tích và kinh nghiệm quốc tế cùng với việc lấy được lòng tin của Trương Phát
Khuê và móc nối được với OSS, Hồ Chí Minh đã có một lợi thế vượt xa các nhà
cách mạng đương thời. Lực lượng quân sự của Việt Minh tuy chưa mạnh nhưng có tổ
chức, có kỷ luật, được hỗ trợ bởi các đoàn thể quần chúng và nhất là được lãnh
đạo bởi những đảng viên sẵn sàng sống chết với chủ nghĩa cộng sản.
Sự so sánh trên đây cho thấy các lực lượng
quốc gia có quá nhiều nhược điểm nên đã không thể giành được chính nghĩa và vai
trò lãnh đạo nhân dân. Ưu điểm lớn nhất của Việt Minh là khả năng tuyên truyền
vận động quần chúng.53 Việt Minh đã khéo che giấu được lai lịch cộng sản dưới hình thức một mặt trận
đoàn kết toàn dân với mục tiêu duy nhất là chống Pháp để đem lại độc lập, tự do
và hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ có thành tích chống cả Pháp lẫn Nhật, nhất là
biết khai thác tối đa các quan hệ hợp tác với OSS, chủ thuyết Roosevelt và
triển vọng hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Minh đã dễ dàng đem lại cho mọi người niềm
tin tưởng là có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đó cũng là một trong những lý do khiến
chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống lại Việt Minh và vua Bảo Đại sẵn sàng thoái
vị. Hồ Chí Minh đã tự chứng tỏ là một lãnh tụ có tài tổ chức, một chính trị gia
đầy mưu lược và một nhà ngoại giao uyển chuyển biết lợi dụng thời cơ nên đã tạo
được cho mình hình ảnh của một nhà cách mạng suốt đời hi sinh cho đất nước. Vì
thế, đa số dân chúng và nhiều trí thức yêu nước đã ủng hộ mặt trận Việt Minh.
Ngay cả trong hàng ngũ đảng phái quốc gia cũng có một số người bị Việt Minh
thuyết phục. Ưu điểm này đã giúp cho các nhà lãnh đạo cộng sản nắm được chính
nghĩa và động viên được đại khối nhân dân trong suốt cuộc chiến tranh chống
Pháp cho đến hoàn toàn thắng lợi.
——–
Ghi chú:
1. Trong sách này, quốc hiệu “Trung Hoa” được sử dụng cho
tới khi Mao Trạch Đông thống nhất được lục địa thì gọi là “Trung Quốc”.
2. Sau cách mạng tháng Tám 1945, chính thể “Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa” được thành lập có kèm theo khẩu hiệu “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”.
Khẩu hiệu này có nguồn gốc từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên với ba mục
tiêu: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Sự vay mượn này cho thây Hồ Chí Minh có khuynh hướng chuyển chủ nghĩa “tam dân”
thành một thứ chủ nghĩa “cộng sản dân tộc” mà cả hai Tổng bí thư Trần Phú
(1930-1931) và Hà Huy Tạp (1935-1938) đã công kích là sai lệch đường lối chính
thông của Comintern, và cũng đã khiến cho Hồ Chí Minh bị Stalin nghi ngờ, ngay
cả sau khi Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ Bảy (1935) ra chỉ thị cho các đảng
cộng sản tìm cách liên minh với các đảng phái quốc gia chống đế quốc Đức và
Nhật.
3. Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng: Lịch sử tranh
đấu cận đại, 1927-1954 (Saigon: VNQDĐ tái bản kỳ II), 108. Trong tập tài
liệu về VNQDĐ từ ngày thành lập đến ngày bị dẹp tan (1927-1932), Chánh sở mật
thám Pháp L. Marty mô tả chi tiết kế hoạch và diễn biến cuộc khởi nghĩa Yên
Báy, Phú Thọ, Hà Nội và Kiến An từ 9 đến 16 tháng Hai 1930, có nhắc đến “Một
bản tuyên cáo kêu gọi dân chúng nổi dậy được in ra một số rất lớn mà hàng nghìn
tờ đã được tìm thấy ở Lục Nam (Bắc Giang). Nhưng trước đó, sở mật thám đã báo
tin cho tất cả chính quyền các nơi đề phòng một cuộc tổng nổi dậy có thể xảy ra
vào ngày đó. Những biện pháp đề phòng này đã cho những người chủ mưu biết rằng
kế hoạch của họ bị bại lộ, vì vậy họ đã sắp đặt lại.” Marty cho biết Nguyễn
Thái Học quyết định dời ngày tổng khởi nghĩa tới 15 tháng Hai thay vì ngày 9,
nhưng các nơi không trì hoãn kịp. (L. Marty, Le “Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng”
ou “Parti National Annamite” au Tonkin, 1927-1932 [Hanoi: Gouvernement
Général de l’Indochine. Documents Vol. n, 1933], 17-18.)
4. William J. Duiker, Ho Chi Minh (New York: Hyperion,
2000), 141.
5. Ibid., 186.
6. Chi tiết về việc Nhật đem quân vào Đông Dương, xem Amiral
Decoux, A La Barre de l’Indochine (Paris: Pion, 1949), 59-122.
7 Duiker, 272.
8 Theo Wolfgang Appel, một tác giả người Đức, thì việc thả
Hồ Chí Minh là do các đại diện Hoa Kỳ ở Trùng Khánh can thiệp với Tổng Thống
Tưởng Giới Thạch. Dẫn bởi Bernard Fall, The Two Vietnams: A political and
military analysis (New York, London: Frederick A. Praeger, 2nd
edition, 1963), 99.
9 GBT là tên tắt của ba người: Lawrence Gordon (Canada),
cựu giám đốc chi nhánh công ty Cal-Texaco ở Hải Phòng, Harry Bernard (Anh) và
Frank Tan (Mỹ gốc Hoa), hai thương gia làm ăn ở Đông Dương. Ba người này lập
thành một tổ tình báo tư nhân với sự giúp đỡ tài chánh lúc đầu của một linh mục
người Pháp thuộc Đoàn Mục vụ Công giáo Đông Dương, sau hợp tác với OSS. Nhờ
giao thiệp rộng rãi với mọi giới tại địa phương, GBT rất đắc lực trong việc
cung cấp cho Đồng Minh những tin tức về hoạt động của Nhật ở Đông Dương.
10 David Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power
(Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1995), 23. Marr
được Charles Fenn cho xem hồ sơ của 53 người này. Fenn dùng một bản câu hỏi rất
tỉ mỉ gồm 35 đề mục để lấy tin tức về các hoạt động và thái độ của Nhật, kể cả
những thói hư tật xấu như chơi bời, cờ bạc, rượu chè.
11 OSS thành lập hai toán đặc vụ là Toán Con Nai do Thomas
chỉ huy và Toán Con Mèo do Holland chỉ huy, có trách nhiệm huấn luyện quân
kháng chiến Pháp ở biên giới Việt-Hoa. Vì Pháp chống lại việc OSS liên lạc với
Việt-Minh và không nhận sự giúp đỡ của OSS, hai toán này được chuyển sang huấn
luyện cho quân du kích Việt Minh. Toán Con Nai của Thomas tới trước sau được
tăng cường bởi Toán Con Mèo. Để có lợi cho việc tuyên truyền, Hồ Chí Minh gộp
luôn huấn luyện viên Mỹ vào quân du kích và đặt tên là “bộ đội Việt-Mỹ”. Viện
trợ của Hoa Kỳ cho Việt Minh qua OSS rất nhỏ so với viện trợ của Anh cho quân
kháng chiến Pháp ở Đông Dương qua Lực lượng 136 (Force 136), từ giữa năm 1944
cho đến khi Pháp bị Nhật đảo chánh ngày 9.3.1945. Lực lượng 136 cũng đã tuyển
một số tù chính trị Việt Minh bị Pháp giam giữ ở Madagascar, đưa sang Calcutta
huấn luyện về tình báo và thả xuống hoạt động ở vùng Việt Bắc. Trong số này có
những người trở thành những nhân vật cao cấp trong chính quyền Việt Minh như
Hoàng Đình Rong, Lê Giản. Xem thêm chú thích số 6, chương Hai.
12 Duiker, 302. trích dẫn một đoạn văn của Võ Nguyên Giáp mô
tả tình trạng hôn mê của Hồ Chí Minh và cho biết ông khỏi bệnh nhờ sự nhiệm màu
của chén thuốc lá cây do một thày thuốc người Tày cho uống. Trong chú thích số
59, trang 633, Duiker thuật lại lời của Paul Hoagland cho biết anh tin rằng
chính thuốc của anh đã cứu mạng ông Hồ. Ngày nay, phía Việt Nam đã có vẻ xác
nhận điều này là đúng, theo lời phát biểu của Triệu Đức Quang tại hội nghị tái
ngộ OSS-Việt Minh ở Hà Nội ngày 22 tháng Chín 1997.
13 Archimedes L.A. Patti, Why Vietnam? (University of
California Press, 1980), 129.
14 Duiker, 301.
16 Marr, Vietnam 1945: the Quest for Power
(California: University of California Press, 1995), 89-90.
17 CAOM, HCI-101. Marc Masayuki Yokohama viết bản phúc trình
112 trang đánh máy cho nhà cầm quyền Pháp, nhan đề “Mémoires personnels écrits
en réponse au questionnaire des autorités françaises de Hué sur lesévénements
survenus en Indochine en Mars 1945” (Hồi ký cá nhân viết ra để trả lời bản câu
hỏi của nhà chức trách Pháp ở Huế về những sự việc xảy ra ở Đông Dương vào
tháng Ba 1945”. Marc Yokohama có vợ Pháp tên là Jeanne A. Vicart và một con
trai tên Jean-Marie Masayumi Yokohama sinh tại Paris năm 1926. Ngày 13.12.1946,
vợ và con của Marc được chính phủ Pháp cho phép hồi hương vì có công giúp đỡ
kiều dân Pháp ở Hà Nội sau vụ đảo chính. Không thấy nói gì tới biện pháp đối
với Marc Masayuki Yokohama.
18 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi (Sài-gòn: Vĩnh
Sơn, 1969), 51.
19 Trịnh Đình Khải, Décolonisation du Vietnam: Un Avocat
Témoigne (Paris: L’Harmattan, 1994), 62. Tác giả cuốn hồi ký bằng Pháp văn
này là luật sư Trịnh Đình Thảo, viết sau năm 1975 và trước khi ông mất năm 1986
nhưng tới năm 1994 mới được xuất bản ở Pháp, do trưởng nam của ông là luật sư
Trịnh Đình Khải đứng tên tác giả.
20 Ibid., 62-63.
21 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, 56.
22 Trịnh Đình Khải, 63.
23 Hữu Ngọc và Nguyễn Đức Hiền (sưu tầm), La Sơn Yên Hồ
Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1998), tập I, 775-850. Với
sự đóng góp bài vở của 59 người quen biết cố học giả họ Hoàng, các tác phẩm của
Hoàng Xuân Hãn về Khoa học và Giáo dục được in lại trong tập I này, các tác
phẩm về Lịch sử được in trong tập II và về Văn học trong tập III.
24 Đạo luật đầu tiên cho phép tổ chức nghiệp đoàn là do
chính phủ Trần Trọng Kim soạn thảo và ban hành ngày 5 tháng Bảy 1945. Tổng Liên
Đoàn Lao Động của Việt Minh tới tháng Bảy 1946 mới được thành lập (Alice w.
Shurcliff, “Trade Union Movement in Vietnam” trong Monthly Labor Review,
U.S. Department of Labor, Washington, D.C., January 1951, 31).
25 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, trong “Lời tuyên
cáo của nội các Trần Trọng Kim”, phần Phụ lục, 193.
26 Ibid., 93.
27 Ibid., 13-14.
28 Ibid., 78-79.
29 Ibid., 93.
30 Trịnh Đình Khải, 66.
31 Chính phủ này lúc mới thành lập (24.8.1945) chỉ có mười
đảng viên cộng sản, bốn ngày sau thì thêm năm người gồm 1 công giáo, 2 thuộc
đảng Dân chủ và 2 không đảng phái. Chính phủ do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và 14
bộ trưởng là: Võ Nguyên Giáp, nội vụ; Chu Văn Tấn, quốc phòng; Trần Huy Liệu,
thông tin tuyên truyền; Phạm Văn Đồng, tài chánh; Nguyễn Mạnh Hà, kinh tế; Vũ
Trọng Khánh, tư pháp; Lê Văn Hiến, lao động; Vũ Đình Hoè, giáo dục; Phạm Ngọc
Thạch, y tế; Nguyễn văn Tố, xã hội; Dương Đức Hiền, thanh niên; Đào Trọng Kim,
công chánh; Cù Huy Cận và Nguyễn văn Xuân, bộ trưởng không giữ bộ nào. Nên lưu
ý Nguyễn Văn Xuân ở đây không phải Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng chính phủ Bảo Đại
năm 1948.
32 Câu nói lịch sử này được phát biểu lần đầu trong tờ chiếu
của Bảo Đại cho quốc dân ngày 17.8.1945 sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Tờ
chiếu thoái vị ngày 25.8 chỉ nhắc lại câu này. Xem Phụ lục A và B trong sách
này.
33 Patti bị giải nhiệm và trả về quân đội sau khi đưa tướng
Philip Gallagher, cố vấn của Lư Hán, đến gặp Hồ Chí Minh vào tháng Chín và
Gallagher được ông Hồ mời cùng sáng lập Hội Thân Hữu Việt-Mỹ.
34 Patti, 338. Vì kết quả đóng góp thực ra chưa được như
mong đợi, Hội đồng chính phủ quyết định gây thêm quĩ bằng thuế đánh vào thực
phẩm. Bảo Đại kể lại rằng khi một bộ trưởng đề nghị đánh thuế gà, vịt và trâu
bò, ông không nhịn được nói thêm vào: “Anh còn quên món thịt chó”. Người đầu
tiên phá lên cười là Hồ Chí Minh (Bảo Đại, Le Dragon d’Annam [Paris:
Pion, 1980], 136).
35 Patti, 338.
36 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, 104.
37 Duiker, 338.
38 Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York:
Viking, 1991), 167.
39 Bemard Fall, 65.
40 Trần Thục Nga (chủ biên), Lịch sử Việt Nam (Hà
Nội: NXB Giáo Dục, 1991), 10.
41 Danh sách mười bộ trưởng gồm: Huỳnh Thúc Kháng (không
đảng phái), nội vụ; Phan Anh (không đảng phái), quốc phòng; Nguyễn Tường Tam
(Đại Việt Dân Chính sát nhập với VNQDĐ), ngoại giao; Chu Bá Phượng (VNQDĐ),
kinh tế; Trương Đình Tri (VNCMĐMH), y tế; Bồ Xuân Luật (VNCMĐMH), canh nông;
Đặng Thái Mai (Việt Minh), giáo dục; Lê Văn Hiến (Việt Minh), tài chánh; Vũ
Đình Hoè (Dân Chủ), tư pháp; Trần Đăng Khoa (Dân Chủ), công chánh.
42 Duiker, 349, trích dẫn một đoạn đối thoại giữa một đảng
viên cộng sản và Hồ Chí Minh về lý do tại sao phải thỏa hiệp với Việt Cách và
Việt Quốc: “Thưa Bác, tại sao phải để cho bọn phản quốc giết người ấy sống làm
gì? Chỉ cần Bác ra lệnh là tụi cháu sẽ tiêu diệt hết chúng nó nội trong một
đêm.” Bác mỉm cười, chỉ tay vào phòng rồi hỏi lại, “Giả sử có con chuột chạy
vào đây thì chú lấy đá ném nó hay tìm cách bắt nó hay tống khứ nó đi?” Thưa nếu
ném đá thì có thể làm vỡ đồ quí trong phòng.” Bác nói “Đối với bọn phản cách
mạng cũng vậy. Chỉ riêng chúng nó thì không có gì đáng sợ, nhưng chúng nó có
chủ. Muốn làm được chuyện lớn thì phải biết tiên liệu.”
43 Bảo Đại, 150-151.
44 Trần Thục Nga, 13.
45 Bảo Đại, 153-161.
46 Philippe Devillers, Paris-Saigon-Hanoi: Les Archives
de la Guerre, 1944- 1947 (Paris: Gallimard/Julliard, 1988), 98. Al Patti,
trong Why Vietnam? (tr. 126), cũng cho biết ông ta rất ngạc nhiên khi
được tin Sainteny đã gặp Nguyễn Tường Tam, “một người quốc gia quá khích.” Cũng
nên biết thêm rằng ngày 12.10.1945, Sainteny và Léon Pignon đã gặp Nguyễn Hải
Thần nhưng không có kết quả; ba ngày sau, Sainteny đến gặp Hồ Chí Minh.
47 Trong thời gian Hồ Chí Minh dự hội nghị Fontainebleau,
đảng viên xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi ông về tin Tạ Thu Thâu bị giết. Ông Hồ
tỏ ý đau buồn về cái chết của “một nhà đại ái quốc” nhưng nói thêm rằng “tất cả
những người không theo đường lối mà tôi đã vạch ra đều sẽ bị đập tan.” (Jean
Lacouture, Ho Chi Minh [Penguin Books, 1969], 130).
48 “Đôi lời kết luận” của Trần Quang cảnh, trong Trần Quang
Vinh, Hồi Ký Trần Quang Vinh và Lịch sử Quân đội Cao Đài (Washington DC:
Thánh thất vùng Hoa Thịnh Đốn tái bản, 1997), 194.
49 Fall, 131, trích dẫn báo Cứu Quốc, Hà Nội, ngày
1.11.1946.
50 Ibid., 131.
51 Danh sách chính phủ mới gồm có: Chủ tịch kiêm Bộ trưởng
ngoại giao: Hồ Chí Minh, thứ trưởng: Hoàng Minh Giám; Bộ trưởng nội vụ: Huỳnh
Thúc Kháng, thứ trưởng: Hoàng Hữu Nam; Bộ trưởng quốc phòng: Võ Nguyên Giáp,
thứ trưởng: Tạ Quang Bửu; Bộ trưởng tư pháp: Vũ Đình Hoè, thứ trưởng: Trần Công
Tường; Bộ trưởng kinh tế: Phan Anh, thứ trưởng: Phạm Văn Đồng; Bộ trưởng tài
chánh: Lê Văn Hiến, thứ trưởng: Trịnh Văn Bình; Bộ trưởng giáo dục: Nguyễn Văn
Huyên, thứ trưởng: Nguyễn Khánh Toàn; Bộ trưởng canh nông: Ngô Tấn Nhơn, thứ
trưởng: Cù Huy Cận; Bộ trưởng giao thông công chánh: Trần Đăng Khoa, thứ
trưởng: Đặng Phúc Thông; Bộ trưởng lao động: Nguyễn văn Tạo; Bộ trưởng xã hội:
Chu Bá Phượng; Bộ trưởng y tế: Hoàng Tích Trí; hai Bộ trưởng không giữ bộ nào:
Nguyễn Văn Tô và Bồ Xuân Luật.
52 Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Cuốn 3 (Hà Nội: NXB Chính tri Quốc gia, 1999), 232
53 Để biết rõ hơn về công cuộc chuẩn bị của Việt Minh trong
giai đoạn 1940- 1945 nhằm nắm lấy vai trò lãnh đạo nhân dân, qua phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc, các đoàn thể cứu quốc và mặt trận văn hóa với ba
nguyên tắc cơ bản: dân tộc, khoa học, đại chúng, xem thêm: Nguyễn Thế Anh, “The
Formulation of the National Discourse in 1940-45 Vietnam”, Journal of International and Area Studies, Vol. 9, No. 1, June
2002.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog Ba Sàm 2013
—–
Mời xem lại:
- Lời Giới Thiệu và Mục Lục sách: “Việt Nam 1945-1995 – Chiến
tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử” (Blog Ba Sàm/ 31-01-2013).
- Lời Mở Đầu (Lê Xuân Khoa/ 01-02-1013).
---------------------------------------
BON-PHUONG’S BLOG
VIỆT
NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / MỤC LỤC (GS Lê
Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Wednesday,
30 January 2013
VIỆT
NAM 1945-1995 : CHIẾN TRANH - TỊ NẠN & BÀI HỌC LỊCH SỬ / LỜI MỞ ĐẦU (GS Lê
Xuân Khoa - Blog Ba Sàm) Thursday,
31 January 2013
No comments:
Post a Comment